3 Mẫu Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Không có gì tự đến đâu con (T9.2024)

Đề bài: Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Không có gì tự đến đâu con.

Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Không có gì tự đến đâu con – Mẫu 1 (T9.2024)

Mở bài

Nguyễn Đăng Tấn là cây bút có những xúc cảm rất riêng về tình cảm gia đình, thể hiện những rung cảm chân thành về những sự việc trong đời sống hàng ngày. “ Không có gì tự đến đâu con” là tác phẩm nhà thơ viết tặng con mình năm 1995, khi con nhà thơ đang học lóp 3. Bài thơ in trong tập “Lời ru vầng trăng”, chứa những tình cảm nồng đượm của người cha dành cho con của mình, là những bài học sâu sắc về cuộc sống và đạo phụ – tử, rung động lòng người.

Thân bài

Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, ươm mầm và phát triển của mỗi cá nhân. Điều đầu tiên mà người cha muốn căn dặn con mình, là chú trọng tu dưỡng đạo đức, trở thành một con người có ích cho xã hội nói chung:

Không có gì tự đến đâu con.

Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa

Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa.

Mùa bội thu phải một nắng hai sương,

Không có gì tự đến dẫu bình thường.

Phải bằng cả bàn tay và nghị lực

Điệp ngữ “Không có gì tự đến” được điệp lại hai lần ở đầu mỗi câu thơ, như lời nhắc nhở, nhấn mạnh của đấng sinh thành đối với đứa con mình, trở thành tư tưởng xuyên suốt toàn bài. Mọi việc xảy ra trong cuộc sống đều diễn ra theo nhân – quả, có lý do riêng, không có gì đến một cách dễ dàng cả. Những câu thơ sau là dẫn chứng trong thực tiễn cũng là lời nhận xét của tác giả về quy luật của cuộc sống muôn màu. Quả muốn ngọt cần trải qua tháng ngày chịu nắng gió để tích nhựa, hoa sẽ thơm khi chịu nắng khắc nghiệt, mùa sẽ bội thu khi con người chịu nắng gió chăm sóc,… Tất cả những điều tốt đẹp nhất sẽ tới khi chúng ta biết phấn đấu, nghị lực vươn lên. Lối diễn đạt điệp cấu trúc được sử dụng một cách linh hoạt, thể hiện cái tài, cách sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tài tình của nhà thơ.

Quy luật bất biến ở đời không phải ai cũng hiểu được. Để đạt được sự thành công, dẫu là trong những công việc nhỏ nhất, mỗi người cần phải đặt cái “tâm”, phải đánh đổi bằng sức lao động và nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân. Sự thay đổi và tiến lên này không chỉ giúp mỗi người đạt được thành tựu ở lĩnh vực hiện tại, mà còn giúp họ phát triển được năng lực tiềm tàng của cá nhân, mở ra nhiều cơ hội và cánh cửa mới. Tất cả phải được đánh đổi bằng “bàn tay và nghị lực”, bằng sự chăm chỉ, cần cù, cầu tiến. Như những chú kiến “tha lâu đầy tổ”, sự cố gắng mỗi ngày sẽ mang con người dần tới cột mốc thành công. Chí ít, là thành công hơn chính “mình” của ngày hôm qua.

Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ so sánh sự chọn lựa và cần mẫn cần có của con người giống như chú “chim chọn hạt”:

Như con chim suốt ngày chọn hạt,

Năm tháng bao dung khắc nghiệt lạ kỳ.

Dẫu bây giờ cha mẹ đôi khi,

Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi.

Có roi vọt khi con hư và có lỗi

Thương yêu con, đâu đồng nghĩa với nuông chiều!

Tích tiểu thành đại, gom gió thành bão, đó là những chân lí được cha ông ta đúc kết trong những câu ca dao, truyền miệng trong đời sống hàng ngày. Phép so sánh gợi hình và gợi cảm này để cụ thể hóa sự cần mẫn và tỉ mỉ của loài chim. Từ hình ảnh ấy, người cha đưa ra những lời khuyên hữu ích cho người con của mình, để vươn tới điểm “chạm” thành công, con cần tích lũy hàng ngày, phát triển hàng ngày, kiên trì như loài chim, mới có thể đạt được thành quả.

Thời gian chảy trôi vừa bao dung vừa khắc nghiệt. Chúng ta có thể làm sai, có thể đứng lên bất cứ lúc nào để khắc phục lỗi lầm. Thời gian thích hợp nhất chính là hiện tại, không hề chỉ trích, không hề đay nghiến con người, thời gian chính là nhân chứng, xoa dịu những tổn thương của con người. Thế nhưng, nó không hề dừng lại, luôn luôn thay đổi. Đứng giữa dòng chảy thời đại, nếu mỗi người không biết nắm bắt cơ hội, thì thời điểm nào cũng là thời điểm “thất bại”. Khi còn trong vòng tay cha mẹ, mỗi đứa con ít nhiều cũng sẽ nhận được những “lời giận dỗi” của cha, lời mắng yêu của mẹ khi phạm lỗi lầm. Chúng ta sẽ nhận được những lời thương yêu khi làm đúng, làm tốt, rồi những trận đòn roi khi con hư và có lỗi,… Lời yêu thương tuy biểu hiện ở nhiều hình dáng, nhưng suy cho cùng, đều xuất phát từ sự mong mỏi của đấng sinh thành, hy vọng những mầm non của mình trở thành người có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, thời gian chảy trôi, con cái sẽ không còn mãi bé bỏng trong tay cha mẹ. Rồi một ngày con sẽ lớn, sẽ dùng những kiến thức, những hành trang của mình đang có để bay tới phương trời mới:

Đường con đi dài rộng biết bao nhiêu…

Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng,

Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,

Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.

Chẳng có gì tự đến… Hãy đinh ninh.

Đường con đi sẽ gặp nhiều chuyện lần đầu tiên, sẽ có vấp ngã, có thể có nỗi buồn, có nước mắt. Thế nhưng, bố mẹ tin rằng hành trang gia đình mang cho con từ thời tấm bé sẽ giữ được “cây vươn thẳng”, con sẽ luôn giữ được tấm lòng và nhân cách cao đẹp của mình. Cuộc sống đem lại cho mỗi người thật nhiều cơ hội, nhưng cũng đem lại không ít những thử thách chông gai. Như “Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng”, lúc ấy, chỉ có dựa vào chính bản thân mình mới giúp con vững bước. Từ đó, cho con thêm nhiều trải nghiệm quý báu và đáng trân trọng, trưởng thành hơn từng ngày.

Kết bài

Đã gần 30 năm kể từ khi bài thơ ra đời, nhưng những giá trị của bài thơ đem lại thì không bao giờ cũ. Lời thơ như thay lời những bậc làm cha mẹ, chí tình và hữu ích đối với lớp trẻ hôm nay và mai sau. Lời dạy “không có gì tự đến” – “phải cố gắng bằng chính đôi bàn tay và sức lực của mình” như còn văng vẳng đâu đây, trở thành kim chỉ nam cho thế hệ sau, luôn hết mình cống hiến và phát triển từng ngày

Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Không có gì tự đến đâu con – Mẫu 2

Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con”, được nhà thơ Nguyễn Đăng Tấn viết tặng con là Nguyễn Đăng Tiến vào khoảng năm 1995, khi Tiến đang học lớp 3. Bài thơ được in trong tập thơ “Lời ru Vầng trăng”, xuất bản năm 2000. Những lời thơ thắm đượm tình phụ tử sâu nặng đã khái quát nên những bài học minh triết về cuộc sống làm xúc động lòng người.

Thơ của Nguyễn Đăng Tấn thường là những dòng cảm xúc chân thành về những gì diễn ra trong đời sống thường ngày. Gia đình là chiếc nôi, nơi bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cho đứa con trước tiên. Bởi vậy, khuyên dạy con trai, ông như người đi trước tâm sự với người đi sau những bước đi trên con đường đời vốn lắm đèo dốc và thác ghềnh ở thời điểm đứa con bước đầu biết cảm nhận về cuộc sống. Mở đầu là những câu:

“Không có gì tự đến đâu con.

Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa

Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa.

Mùa bội thu phải một nắng hai sương”.

Câu thơ đầu nhắc lại nhan đề của bài, điệp ngữ “Không có gì tự đến” xuất hiện nhiều lần ở đầu các khổ thơ, nhấn mạnh và khắc sâu tư tưởng xuyên suốt toàn bài. Mọi việc trên đời đều có nhân quả, lý do riêng của nó.

Những câu thơ tiếp là các dẫn chứng minh họa, cũng là lời nhận xét khách quan về quy luật cuộc sống.

Tác giả dùng lối diễn đạt điệp cấu trúc câu, mỗi câu thơ đậm tính triết lý đều gồm hai vế. Vế trước là kết quả, mục đích, vế sau là nguyên nhân. Dù là thiên nhiên hay con người, một khi hướng tới mục tiêu đạt được: Quả muốn ngọt, hoa sẽ thơm, mùa bội thu đều phải có sự trả giá. Còn vế sau là cách thức, phương tiện đạt tới. Cây có tích nhựa đủ mới tạo nên quả ngọt. Hoa có trải qua “nắng lửa” mới có được hương thơm. Để có mùa màng bội thu, con người phải trải qua vất vả nhiều ngày một nắng hai sương.

Quy luật tất yếu đó ở đời không phải ai cũng hiểu. Để thành công, dẫu chỉ là công việc bình thường, con người cũng phải đánh đổi bằng sức lao động và nỗ lực của bản thân: “Phải bằng cả bàn tay và nghị lực”, chăm chỉ cần cù như kiến tha mồi mới dần xây được tổ, ong hút nhụy từ nhiều hoa mới làm nên mật.

Trong bài, tác giả so sánh: “Như con chim suốt ngày chọn hạt” để tích tiểu thành đại, góp nhỏ thành lớn. Phép so sánh giàu gợi hình, gợi cảm này nhằm cụ thể hóa ý nghĩa sự cần mẫn, tỉ mỉ của loài chim. Từ đó, người cha khuyên con trai cũng phải có sự chăm chỉ, kiên trì như vậy mới đạt thành quả.

Bên cạnh đó, nghệ thuật nhân hóa chứng tỏ nhà thơ có cách nhìn đa chiều “Năm tháng bao dung khắc nghiệt lạ kỳ”. Cuộc sống vốn bao dung nhưng cũng đầy thử thách, đúng như ông cha xưa từng dạy: “Có làm thì mới có ăn/Không dưng ai dễ mang phần đến cho”.

Đứa con độ tuổi còn thơ trẻ, hồn nhiên, chưa hiểu được điều ấy, có lúc còn ham chơi. Bổn phận người làm cha mẹ phải biết linh hoạt cương nhu trong uốn nắn, dạy bảo con:

“Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi

Có roi vọt khi con hư và có lỗi”.

Sự nghiêm khắc và mềm mỏng hợp lý của cha mẹ khiến người con dần lớn khôn. Khổ thơ áp cuối người cha vạch rõ con đường phía trước của con “dài rộng biết bao nhiêu…”, điều quan trọng là con phải biết “giữ cây vươn thẳng”, tự giác và nghiêm khắc với bản thân. Cuộc sống vốn không dễ dàng:

“Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,

Chỉ có con mới nâng nổi chính mình”.

Hai câu thơ vừa là lời dạy, vừa là cha giao trách nhiệm cho con: Không ai có thể sống thay con, chỉ có con mới quyết định được tương lai cuộc đời của mình. Khổ thơ kết chốt lại cô đọng chỉ bằng một dòng gồm hai câu thơ ngắn, dạng câu đặc biệt, người cha muốn con hãy khắc cốt ghi tâm: “Chẳng có gì tự đến… Hãy đinh ninh”. Lời răn dạy đó nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc.

Theo nhà thơ, nền tảng gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc dạy dỗ để hình thành nhân cách con cái. Những bài thơ ông viết cho con, cũng là để viết cho chính mình, tự khuyên mình.

Tính đến nay, gần ba mươi năm đã đi qua kể từ khi bài thơ ra đời nhưng lời khuyên của nhà thơ vẫn còn những giá trị sâu sắc. Nhà thơ đã nói hộ bao người làm cha lời dạy chí tình, chí nghĩa rất hữu ích với các con của mình, với lớp trẻ hôm nay và cả mai sau.

Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Không có gì tự đến đâu con – Mẫu 3

“Khi giọt mưa mùa xuân rơi ở đâu đó
Thì trên đồng xào xạc cỏ và hoa
Khi nước mắt rơi từ thi sĩ
Thì những lời chân chính được sinh ra”.

Nhà thơ Raxun Gamzatop bằng trải nghiệm sáng tạo nghệ thuật đã đúc kết nên những vần thơ ấy. Quả thật, mỗi tác phẩm nghệ thuật muốn có “những lời chân chính” thì nhà văn, nhà thơ phải “Xin dâng máu này đang tươi/Này đây tiếng nói giọng cười thiết tha”. “Không có gì tự đến đâu con” của Nguyễn Đăng Tấn được viết ra từ tình cảm như thế. Bởi vậy mà bài thơ chứa đầy những lời lắng đọng, tha thiết.

Nguyễn Đăng Tấn là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Thơ ông thường là những dòng cảm xúc chân thành về những gì diễn ra trong đời sống thường ngày. Bài thơ xuất phát từ sâu thẳm trái tim nhà thơ viết năm 1995 dành tặng cho cậu con trai khi ấy đang học lớp 3. Bài thơ rút ra từ tập “Lời ru Vầng trăng”, chứa đựng những lời thơ thắm đượm tình phụ tử sâu nặng.

Gia đình là nền tảng, là cái nôi nuôi dưỡng con người lớn lên. Bởi vậy, bảo ban con trai, ông như người đồng hành, người đi trước truyền lại những bài học trên con đường vốn ghập ghềnh chông gai. Bài thơ bắt đầu bằng những lời thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng:

“Không có gì tự đến đâu con.
Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa.
Mùa bội thu phải một nắng hai sương.”

Câu thơ đầu tiên điệp ngữ lại nhan đề của toàn bài, hơn thế, “không có gì tự đến đâu con” còn xuất hiện ở đầu các khổ thơ nhằm nhấn mạnh và khắc sâu tư tưởng xuyên suốt toàn bài. Không có gì là tự nhiên xảy ra, mọi việc trên đời đều có nhân- quả của riêng nó. Dù là thiên nhiên hay con người, muốn hướng đến thành công đều phải trải qua vô bàn khó khăn, thử thách. Cây có tích đủ nhựa mới tạo nên quả ngọt. Hoa có thơm ngát cũng phải trải qua “nắng lửa”. Cả con người cũng vậy, muốn mùa màng bội thu phải “một nắng hai sương”, vất vả, lam lũ mới gặt được trái ngọt. Tác giả sử dụng biện pháp điệp cấu trúc, mỗi một câu thơ đều có hai vế. Vế trước là kết quả, mục đích con người hướng tới, vế sau là nguyên nhân, là điều kiện cần có để đạt được.

Quy luật tất yếu ấy không phải ai cũng hiểu. Cũng như:

“Không có gì tự đến dẫu bình thường
Phải bằng cả bàn tay và nghị lực”

Dù cho là những công việc bình thường nhất, muốn thành công, con người ta cũng phải trải qua vô vàn những khó khăn, phải đánh đổi bằng sức lao động và nỗ lực của bản thân. Khi nhìn những người xung quanh và ao ước có một cuộc sống dễ dàng giống họ, nhưng cuộc sống thuận lợi như thế không phải dùng phương thức nhẹ nhàng mà có được. Bởi mới nói “Trên con đường bước tới thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”, chăm chỉ cần cù như kiến tha mồi lâu ngày mới dần dần xây được tổ. Hay:

“Như con chim suốt ngày chọn hạt
Năm tháng bao dung khắc nghiệt lạ kỳ.”

Nhà thơ đã ví von so sánh với hình ảnh những chú chim cần mẫn, tỉ mỉ chọn hạt. Từ đó, dành lời khuyên đến người con trai cũng phải chăm chỉ và kiên trì như vậy mới đạt được thành quả. Phép tu từ so sánh giàu gợi hình, gợi cảm mà ý nghĩa biết bao nhiêu! Bên cạnh đó, nghệ thuật nhân hoá cũng cho thấy cái nhìn đa chiều của Nguyễn Đăng Tấn: ’Năm tháng bao dung khắc nghiệt lạ kỳ’. Cuộc sống vốn bao dung, vị tha nhưng cũng đầy những khó khăn, thử thách, không có con đường đi lên nào là dễ dàng cả, máy bay chỉ có thể cất cánh khi chống lại gió, không phải thuận theo nó.

 

Rồi với những đứa con thơ, còn hồn nhiên, tinh nghịch, ham chơi, cha mẹ luôn nhẫn nại, linh hoạt cương nhu trong uốn nắn, dạy bảo con:

“Dẫu bây giờ cha mẹ đôi khi
Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi
Có roi vọt khi con hư và có lỗi
Thương yêu con đâu có nghĩa là nuông chiều”

Quả thật, đúng như nhà thơ Pháp Andre Chanier khẳng định: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ.” Chính từ tình yêu thương dành cho người con trai của mình mà tác giả mới viết lên được những vần thơ rung động lòng người đến thế. Sự nghiêm khắc và mềm mỏng trong dạy dỗ của cha mẹ khiến những người con dần lớn khôn. Ông cha ta có câu:

“Thương cho roi cho vọt
Ghét cho ngọt cho bùi”

Vì muốn con lên người nên cha mẹ mới nghiêm khắc dạy bảo, chứ ai mà chẳng muốn nói những lời dịu ngọt với người thân yêu. Tấm lòng của cha mẹ bao la biết bao nhiêu, phận làm con sao hiểu hết được!

“Đường con đi dài rộng biết bao nhiêu…
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng,
Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình “

Bằng tất cả tình yêu thương, người cha nhắn nhủ đến đứa con thân yêu của mình: Khi con khôn lớn đủ lông đủ cánh, con đường phía trước của con ”dài rộng biết bao nhiêu”, điều quan trọng là phải biết “giữ cây vươn thẳng”, luôn hướng đến tương lai phía trước, tự giác, nghiêm khắc với bản thân để không đầu hàng trước khó khăn. Hai câu thơ vừa là lời răn dạy, vừa là trách nhiệm người cha giao cho con: Cuộc sống vốn không dễ dàng, không ai có thể sống thay cuộc đời con, chỉ có con mới quyết định được tương lai của mình.

Quả thật rằng: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn, do đó không giản đơn mà cũng không thần bí, thiêng liêng…” Khổ thơ cuối có cấu trúc đặc biệt, cô đọng chỉ với hai câu thơ ngắn, thật đặc biệt:

“Chẳng có gì tự đến… Hãy đinh ninh”

Lời răn dạy nhẹ nhàng mà sâu sắc làm sao! “Có làm thì mới có ăn/Không dưng ai dễ mang phần đến cho”. Vì vậy, hãy tự thân hành động để đạt được mong muốn, trải qua bao cay đắng ắt sẽ có ngày thành công. Đây cũng chính là bài học và ý nghĩa Nguyễn Đăng Tấn gửi đến độc giả.

“Thơ ca là âm nhạc tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả” . Thơ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ rung lên những nhịp đập thổn thức, ngân lên những điệu ngân trong tâm hồn. Chính vì vậy những vần thơ tuy vô cùng ngắn ngủi nhưng lại có sức lan tỏa lớn đến với người đọc. Có  những bài thơ ra đời cách đây hàng chục, hàng trăm năm nhưng vẫn còn làm thổn thức trái tim bạn đọc bao thế hệ và tôi tin “Không có gì tự đến đâu con” là một bài thơ như thế!