Trong tác phẩm Miền cỏ thơm, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả vẻ đẹp của cỏ vào bốn mùa, đoạn trích dưới đây nói về cỏ mùa xuân. Theo dõi bài viết của Tramvanhoc cảm nhận về vẻ đẹp của cỏ trên mảnh đất cố đô qua cảm quan của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường nhé!
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
[…]Mùa xuân có thể định nghĩa là mùa mà toàn bộ cây nở thành hoa. Những ngọn đồi phía tây nam Huế bừng lên trong hương hoa cỏ, khiến người ta không thể ngồi yên cúi mặt lên trang sách. Hương cỏ tràn vào thành phố, như gần như xa, khiến tôi nghĩ rằng ở đâu đấy trên những sườn đồi, cánh cửa của vườn Địa Đàng đang mở ra, hoặc những nàng tiên đang múa hát dưới những gốc đào nở hoa, với mùi hương bát ngát như thể mùi tóc bay trong những chiều gió. Cỏ mọc ven những con đường trong thành phố, trên đó lưa thưa những chòm cây dại, như cây hoa ngũ sắc cười sặc sỡ dọc đường thơ ấu của tôi. Bay theo những bước chân lang thang của tôi là những con bướm, những cánh chuồn nghe ngày nắng lên tung tăng trong không gian, ghé cây này, vờn cây kia, trong một thành phố lúc nào cũng cổ xưa, văng vẳng điệu nhã nhạc của cung đình đã hoang phế. Đã nhiều năm, tôi chợt nhận ra rằng lũ chuồn chuồn, bươm bướm của tôi đã rời thành phố này mà đi đâu biệt tăm, chắc là chúng đã tìm đến một không gian khác yên tĩnh hơn, ít bị tiếng động làm choáng đầu hơn. Một hôm nhân có việc đi ra ngoại ô vào ban đêm, tôi gặp những đàn đom đóm mịt mù như một đám bụi sao bay trôi qua những khu vườn tối thẳm. Tôi lại nhớ ra rằng đã từ lâu, ở Huế người ta không còn thấy bóng con đom đóm, không còn thấy bóng những bầy trẻ con đang đuổi theo vầng bụi lửa đom đóm để cố bắt lấy “hạt ngọc nhà trời”. Và chính ra những cánh bướm, cánh chuồn chuồn thân mến của tôi đã rời bỏ những bụi cây hoang dại ven đường mà đi về nơi khu vườn địa đàng của chúng, trên những đồi cỏ kia, để lại tôi đứng một mình làm thằng bé lang thang cơ nhỡ thế này. Ôi! tôi muốn làm Liệt Tử cưỡi gió mà đi khắp nơi trên thành phố kinh xưa của tôi, thành phố nằm phơi mình giữa non xanh nước biếc, tỏa rộng linh hồn vô ưu thênh thênh trong hương cỏ.
Mùa xuân về, mặt đất công viên sáng bừng lên bởi ngàn vạn bông cỏ tím, mỗi bông cỏ lại ngậm trong lòng một hạt sương mai khiến vào buổi sáng sớm, cỏ ở ven sông Hương lấp lánh như những hạt ngọc. Những cô sinh nữ từng rủ nhau ra đấy ngồi chơi trên vạt cỏ; lâu ngày tâm hồn họ nhiễm phải căn bệnh trầm uất, sinh ra bởi những bụi phấn tím của bông cỏ mùa xuân. Một chút u hoài đã kết tinh trong đôi mắt khiến từ đó họ trở nên dè chừng với những cuộc vui trong đời, và dưới mắt họ, những trò quyến rũ đối với thế nhân tự nhiên nhuốm chút màu ảm đạm của cái mà bà Huyện Thanh Quan(1) khi xưa gọi là “hý trường”(2).
Mùa xuân, tự nhiên tôi muốn gác hết mọi việc bận rộn để lên rong chơi trên những đồi cỏ gần vùng mộ Vua. Ở đó tôi có thể nằm ngửa mặt trên cỏ, ngước mắt nhìn chùm hoa lê nở trắng muốt trên cao. Tôi đã tìm đến định sống ở nhiều đô thị bắc nam; ở đó tôi có thể tìm thấy mọi cái cần cho cuộc sống của tôi, chỉ thiếu một cái mà tôi không chịu nổi, là thiên nhiên.
Mùa hạ, trong những khu vườn Huế, khí đất xông lên hùng mạnh, cỏ mọc xanh lạ thường. Trái cây sắp chín nằm chờ trên cành, và khắp đây đó trong vùng Kim Long, khói đốt cỏ tỏa ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông. Trên một chiếc bình phong cổ khuất trong cây lá của một khu sân vắng vẻ còn dấu chạm lỗ chỗ của một câu đối nói đến những bầy chim nhạn thường về đậu kêu om sòm trên bãi sông Hương trước mặt nhà. Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc cũng giống như lũ côn trùng kia, chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai. Mùa thu trời trở gió heo may lành lạnh làm người ta tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết. Vào mùa này, các văn nhân thường mở hội leo núi, mang theo túi thơ bầu rượu lên các đỉnh núi cao mừng tiết “Trùng Cửu”(3). Núi đó có thể là núi Ngự Bình, núi Kim Phụng hoặc những rừng thông vùng đồi Thiên An(4), và văn nhân có thể là Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương(5), Hàn Mặc Tử(6). Những văn nhân ngồi uống rượu trên đầu núi, nghe tiếng chuông chùa thánh thót trên thành phố dầm mình trong sương khói; đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo…
(Trích Miền cỏ thơm – Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Chú thích:
(1)bà Huyện Thanh Quan: tên thật là Nguyễn Thị Hinh (1805 – 1845) là một nữ thi sĩ nổi tiếng sống ở thời nhà Nguyễn, người đất Thăng Long, có nhiều năm sống ở Kinh thành Huế.
(2)hý trường: trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của bà Huyện Thanh Quan có câu “Tạo hóa gây chi cuộc hý trường”. Hý trường là nơi biểu diễn các loại hình sân khấu. Câu thơ ý muốn nói đến những buồn vui lẫn lộn từ những thay đổi của hóa công.
(3)Trùng cửu: ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch.
(4)núi Ngự Bình, núi Kim Phụng, đồi Thiên An: những địa danh ở Huế.
(5)Tuy Lý Vương(1820 – 1897): hoàng tử nhà Nguyễn, một nhà thơ trung đại.
(6)Hàn Mạc Tử: tên thật là Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940), một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, người Bình Định, quê gốc Quảng Bình, từng có vài năm gắn bó với mảnh đất cố đô.
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của cỏ trên mảnh đất cố đô qua cảm quan của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua đoạn trích, hãy nhận xét về cái tôi tài hoa của tác giả.
Cảm nhận về vẻ đẹp của cỏ trên mảnh đất cố đô qua cảm quan của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
– Nêu vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của cỏ qua cảm nhận của tác giả và đánh giá về cái tôi tài hoa của tác giả
– Trích dẫn đoạn trích
2. Thân bài
* Vẻ đẹp của cỏ qua cảm nhận của tác giả:
– Mùa xuân:
+ Hương hoa cỏ ngập tràn thành phố, khiến tác giả liên tưởng tới hương thơm của vườn địa đàng lúc mở cửa, hay hương thơm tỏa ra từ những nàng tiên kiều diễm.
+ Những bãi cỏ xanh bạt ngàn như tôn thêm vẻ đẹp của thành phố Huế, mang đến cho thành phố một nét vô tư, hồn nhiên: thành phố nằm phơi mình giữa non xanh nước biếc, tỏa rộng linh hồn vô ưu thênh thênh trong hương cỏ.
+ Cỏ làm bừng sáng cảnh vật, len lỏi vào tâm hồn những cô gái Huế mà để lại trong lòng họ những nhớ thương, xao xuyến: lâu ngày tâm hồn họ nhiễm phải căn bệnh trầm uất, sinh ra bởi những bụi phấn tím của bông cỏ mùa xuân.
+ Cỏ làm nên vẻ đẹp tự nhiên của xứ Huế, có sức lôi cuốn mãnh liệt đối với tác giả.
– Mùa hạ: Cỏ như có thêm sức mạnh, trở nên xanh tốt lạ thường.
– Mùa thu: Cỏ như gợi cảm hứng sáng tác cho các thi nhân.
* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích:
– Tác giả sử dụng kết hợp đa dạng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ khiến hình tượng cỏ trong đoạn trích hiện ra sinh động, gợi cảm.
– Kết hợp giữa tự sự, miêu tả, với biểu cảm khiến cho đoạn văn vừa giàu chất tạo hình, vừa giàu cảm xúc.
– Câu văn miêu tả vừa nhẹ nhàng, vừa tinh tế
* Nhận xét về cái tôi tài hoa của tác giả:
– Cái tôi tài hoa ý muốn nói tới sự am hiểu, tinh tế, tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường được bộc lộ qua những trang văn.
– Biểu hiện cái tôi tài hoa của tác giả:
+ Cảm nhận thiên nhiên sâu sắc và tinh tế.
+ Vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để miêu tả và cảm nhận thiên nhiên.
+ Vận dụng những tri thức về địa lí và văn hóa trong cảm nhận về thiên nhiên.
+ Xây dựng hình tượng độc đáo, không phải con người mà lại mang những phẩm chất của con người: cỏ trong cảm nhận của nhà văn vừa có nét quyến rũ, tươi trẻ của một thiếu nữ, lại vừa mạnh mẽ như một chàng trai tuổi đôi mươi.
+ Vừa miêu tả thiên nhiên tác giả vừa bộc lộ cảm xúc.
– Nhận xét:
+ Cái tôi tài hoa của tác giả là một biểu hiện của tâm hồn nghệ sĩ, khát khao khám phá và hưởng thụ cái đẹp.
+ Cái tôi tài hoa trong sự cảm nhận của tác giả về thiên nhiên cho thấy tình cảm sâu đậm mà tác giả dành riêng cho Huế.
+ Cái tôi tài hoa thể hiện chất trí tuệ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
+ Cái tôi tài hoa làm nên phong cách viết kí rất riêng của tác giả.
3. Kết bài
Đánh giá chung về tài năng tác giả và giá trị tác phẩm.