Nguyễn Tuân, một nhà văn tài ba của Việt Nam. Tác phẩm của ông chứa đựng sự sắc sảo nghệ thuật và thông điệp nhân văn sâu sắc. Nguyễn Tuân đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu về nhà văn thông qua bài viết Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định) nhé!
Tiểu sử
– Nguyễn Tuân sinh ra ở phố Hàng Bạc, thành phố Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 1910 và ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, an táng tại Nghĩa trang Văn Điển (thọ 77 tuổi).
– Bút danh: Nguyễn Tuân, Nhất Lang, Thanh Thủy, Thanh Hà, Ngột Lôi Nhật, Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc
– Nghề nghiệp: diễn viên (phim Cánh đồng ma năm 1938 và phim Chị Dậu năm 1980), nhà văn
– Quê quán: thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), huyện Hoàn Long, Hà Nội, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội
– Ông lớn lên trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Sự nghiệp
– Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Trung học cơ sở trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định (ngày xưa trường tên là Thành chung Nam Định) năm 1929 thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt.
– Sau đó không lâu thì Nguyễn Tuân bị bắt tại Thái Lan và đưa về giam giữ ở Thanh Hóa vì không có giấy phép nhưng vẫn sang biên giới Lào. Sau khi ra tù thì Nguyễn Tuân tiếp tục đi trái phép vào Sài Gòn, đến Vinh thì lại bị bắt.
– Khi ra tù, khoảng những năm 1935 ông mới bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình. Nhưng đến tận năm 1938 các tác phẩm của ông mới thu hút được người đọc.
– Năm 1941 Nguyễn Tuân bị bắt giam một lần nữa và ông có cơ hội được gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
– Năm 1945, cuộc cách mạng tháng Tám lịch sử vĩ đại diễn ra và thành công, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tham gia nhiệt tình cách mạng, kháng chiến, ông trở thành một cây bút tài hoa của nền văn học mới.
– Từ năm 1948 -1957, Nguyễn Tuân giữ chức vụ Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam
Tác phẩm
*Các tác phẩm trước cách mạng tháng Tám:
– Tùy bút/ du kí:
+ Một chuyến đi (1938)
+ Thiếu quê hương (1940)
+ Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
+ Tàn đèn dầu lạc (1941)
+ Tùy bút (1941)
+ Tóc chị Hoài (1943)
+ Tùy bút II (1943)
– Phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939)
– Tập truyện ngắn: Vang bóng một thời (1940)
*Các tác phẩm sau cách mạng tháng Tám:
– Tùy bút/ kí
+ Đường vui (1949)
+ Tình chiến dịch (1950), tập bút kí
+ Đi thăm Trung Hoa (1955)
+ Tùy bút kháng chiến (1955)
+ Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
+ Sông Đà (1960)
+ Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
+ Ký (1976)
+ Cô Tô (1986), ký
+ Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988)
– Tập truyện ngắn: Nguyễn (1945)
– Tiểu thuyết:
+ Chùa Đàn (1946)
+ Thắng càn (1953)
– Truyện thiếu nhi:
+ Chú Giao làng Seo (1953)
+ Truyện một cái thuyền đất (1958)
– Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981)
– Tập tiểu luận: Yêu ngôn (2000, sau khi mất)
Giải thưởng, vinh danh
– Nguyễn Tuân được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
– Ở Hà Nội có một con đường mang tên ông nối từ đường Nguyễn Trãi cắt ngang qua các phố Nguyễn Huy Tưởng, Ngụy Như Kon Tum đến đường Lê Văn Lương, nối với phố Hoàng Minh Giám.
Phong cách sáng tác
Nguyễn Tuân là một nhà văn có nhiều nét đặc sắc về mặt nghệ thuật trong việc sáng tác. Ông đã tạo ra những tác phẩm độc đáo và ấn tượng, góp phần làm phong phú thêm văn học Việt Nam.
Một trong những nét đặc sắc của Nguyễn Tuân là cách ông sử dụng ngôn ngữ. Ông biết cách chọn từ và câu để tạo nên những hình ảnh sống động, mô tả chi tiết và tạo cảm giác cho độc giả. Sự tinh tế trong việc sử dụng ngôn ngữ giúp tác phẩm của ông trở nên hấp dẫn và lôi cuốn.
Nguyễn Tuân còn có khả năng xây dựng không gian và thời gian trong tác phẩm của mình một cách rất điêu luyện. Ông biết cách tạo ra những bối cảnh sống động, từng chi tiết được mô tả tỉ mỉ, giúp độc giả có cảm giác như đang sống trong câu chuyện. Ông cũng linh hoạt trong việc diễn đạt thời gian, tạo ra những màn trình bày đa dạng và hấp dẫn.
Một điểm đặc biệt khác của Nguyễn Tuân là sự sáng tạo và độc đáo trong việc xây dựng cốt truyện. Ông không ngại thử nghiệm các kỹ thuật viết khác nhau, từ việc sử dụng kỹ thuật nhảy thời gian đến việc kết hợp giữa thực tế và hư cấu. Điều này tạo nên sự mới mẻ và độc đáo trong tác phẩm của ông, khiến độc giả luôn tò mò và không thể rời mắt khỏi trang sách.
Nguyễn Tuân khéo léo kết hợp giữa yếu tố hài hước và bi thương, tạo nên những tình huống độc đáo và gây cười nhưng cũng đầy ý nghĩa trong câu chuyện. Tác phẩm của nhà văn thường chứa đựng những thông điệp nhân văn đầy sâu sắc, khơi gợi suy ngẫm về cuộc sống và con người.
Vậy nên, trang sách của Nguyễn Tuân thể hiện những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật là khả năng sử dụng ngôn ngữ tinh tế, xây dựng không gian và thời gian sống động, cùng với sự sáng tạo và độc đáo trong việc xây dựng cốt truyện. Tác phẩm của ông đã mang lại những trải nghiệm đặc biệt cho độc giả và góp phần làm phong phú thêm văn học Việt Nam.
Nhận định, đánh giá
– Vũ Ngọc Phan: “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.”
– Nguyễn Đăng Mạnh:
+ “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”
+ ” Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,… và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện”
+ “Nguyễn Tuân một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm”
+ “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói – hung bạo và trữ tình…”
– Nguyễn Đình Thi: “Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa.”
– Tố Hữu: “Người thợ kim hoàn của chữ”
– Phan Huy Đông: “… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”