Bằng Việt là một trong những cái tên sáng giá nhất trong văn học Việt Nam. Cùng nhau tìm hiểu về tác giả với bài viết Giới thiệu tác giả Bằng Việt (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác) nhé!
Tiểu sử
– Bằng Việt ( Sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941), tên thật là Nguyễn Việt Bằng
– Quê quán: xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội).
– Nghề nghiệp: Nhà thơ.
Sự nghiệp
– Năm 1961 Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi, bài thơ đầu tiên của ông được công bố là bài Qua Trường Sa viết. Ông đã thể hiện nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới.
– Nhà thơ sinh năm 1941 tại phường Phú Cát, thành phố Huế nhưng có cuộc sống tuổi thơ ở Hà Tây, học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng hợp Kiev.
– Năm 1965, ông về Việt Nam, công tác tại Viện Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam.
– Đến năm 1970, Bằng Việt tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
– Nhà thơ được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983-1989) vào năm 1983 và là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (xuất bản từ 1985).
– Bằng Việt được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội vào năm 2001 và được bầu lại làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2006 – 2010.
– Ông được bầu làm một trong 5 Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ VII Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (tháng 9 năm 2005).
– Và Ông cũng từng làm Thư ký thường trực, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội (1991-2000).
Tác phẩm
Các sáng tác của Bằng Việt:
– Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ 1972 – 1973)
– Những gương mặt – Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973), 24 bài thơ
– Đất sau mưa (1977), 20 bài thơ
– Khoảng cách giữa lời (1984), 16 bài thơ
– Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương
– Bếp lửa – Khoảng trời (Tập thơ) (1986)
– Phía nửa mặt trăng chìm (1995)
– Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001), 30 bài thơ
– Thơ trữ tình (2002)
– Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)
– Nheo mắt nhìn vào gió (Tập thơ, 2008), 29 bài thơ
– Hoa tường vi (Tập thơ), (7-2018)
Giải thưởng, vinh danh
– Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968)
– Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982
– Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)
– Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)
– Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ “Ném câu thơ vào gió”
– “Giải thành tựu trọn đời” của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, với nhận xét: “Nhiều bài đã trở nên quen thuộc với các thế hệ người yêu thơ trong bốn thập kỷ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của người chuyển ngữ. Giải trao cho nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận thành tựu trọn đời của một dịch giả tài hoa có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn chương nước ngoài”.
Phong cách sáng tác
– Bằng Việt là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông, giống như nhiều nhà thơ cùng thời, mang hơi thở của giai đoạn này, phản ánh những hiện thực sống động của chiến tranh và khát vọng hoà bình. Tuy nhiên, nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Bằng Việt không chỉ nằm ở cái chung mà còn toát lên từ giọng điệu riêng biệt: mượt mà, trong trẻo, vừa sâu lắng vừa mang tính triết luận. Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện phong cách này chính là Bếp lửa – bài thơ đong đầy tình cảm người cháu dành cho người bà nơi phương trời xa.
– Cũng như nhiều nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, Bằng Việt mang trong mình ý thức sáng tác gắn liền với thực tế chiến đấu. Ông từng dấn thân vào tuyến lửa khu IV, gia nhập đoàn quân xung kích trên tuyến đường 559, góp phần ghi lại những khoảnh khắc bi tráng của lịch sử qua thơ ca. Tuy nhiên, “tạng” thơ của ông, với chiều sâu suy ngẫm và liên tưởng phong phú, đôi khi không phù hợp với dòng chủ lưu văn học mang tính tuyên truyền, ngợi ca mạnh mẽ thời kỳ đó. Dẫu vậy, ngay cả trong những năm tháng này, thơ ông vẫn giữ được chất trữ tình sâu sắc và sự tài hoa trong cách thể hiện. Những câu thơ của ông không chỉ tái hiện hiện thực chiến đấu mà còn thổi vào đó tinh thần lãng mạn, như một lý tưởng đẹp mà nhiều độc giả yêu mến.
– Giai đoạn sau này, Bằng Việt dần chuyển hướng từ lý tưởng hoá sang cái nhìn thực tế hơn về đời sống. Ông khám phá những nỗi buồn, niềm vui thường tình, thể hiện sự từng trải trong thơ. Tập thơ Ném câu thơ vào gió là minh chứng rõ nét cho sự thay đổi này. Từ những mộng tưởng xa vời, ông đưa thơ ca hạ xuống gần hơn với đời sống thường nhật, thể hiện những xúc cảm chân thật và ý nghĩa sâu sắc.
– Thơ của Bằng Việt trong giai đoạn trưởng thành thể hiện rõ nét cái tôi trữ tình thấm đẫm nỗi đau đời và chiều sâu triết lý. Bài thơ Đọc lại Nguyễn Du là một ví dụ tiêu biểu, nơi ông tìm thấy sự đồng điệu với đại thi hào qua những suy ngẫm về số phận con người và kiếp đời thi nhân: “Quá khuya, chợt thấy mình già/ Nhìn ra cửa sổ, mưa sa kín trời.” Ở đây, thơ của ông không chỉ là tiếng nói cá nhân mà còn là sự khái quát về cuộc đời, về những nỗi niềm chung của nhân loại.
=> Phong cách sáng tác của Bằng Việt là sự kết hợp giữa tâm tình sâu lắng và trí tuệ sắc sảo. Ông không ngừng đổi mới, từ lý tưởng lãng mạn thời chiến đến cái nhìn thực tế, nhân văn trong những năm tháng trưởng thành. Chính sự đa dạng này đã giúp ông ghi dấu ấn đặc biệt trong dòng chảy thơ ca Việt Nam nửa sau thế kỷ XX.