Nhà văn Bùi HIển là một trong những văn hiện thực xuất sắc, các trang sách mà ông để lại đã góp phần làm phong phú hình ảnh quê hương đất nước, con người Việt Nam xinh đẹp, giản dị, thân thương. Cùng nhau tìm hiểu về nhà văn thông qua bài viết Giới thiệu tác giả Bùi Hiển (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định) nhé!
Tiểu sử
– Bùi Hiển sinh ngày 22 tháng 11 năm 1919 tại làng Phú Nghĩa Hạ – mất ngày 11 tháng 3 năm 2009.
– Quê quán: làng Phú Nghĩa Hạ (nay thuộc xã Tiến Thủy, Quỳnh Lưu, Nghệ An).
– Học vấn: Từ năm 13 tuổi đến 17 tuổi nhà văn học ở trường Quốc học Vinh.
Sự nghiệp
– Năm 1940: một số truyện ngắn của nhà văn được đăng báo.
– Năm 1941: cho ra tập truyện ngắn đầu tay Nằm vạ mang lại tiếng vang trên văn đàn.
– Tháng 8 năm 1945: Nhà văn Bùi hiển tham gia Tổng khởi nghĩa tại thành phố Vinh.
– Từ giữa năm 1949 đến 1950: Bùi Hiển công tác tại vùng địch hậu Bình Trị Thiên.
– Cuối năm 1950: Nhà văn được bổ sung vào thường vụ Chi hội Văn nghệ Liên khu IV.
– Năm 1957: Tham gia Hội nhà văn, giữ chức vụ Ủy viên biên tập tuần báo Văn học, Văn nghệ và Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam liên tục các khóa I (1958 – 1961), II (1962 – 1972), III (1973 – 1982).
– Sau năm 1975: Nhà văn tiếp tục công tác tại Hội nhà văn Việt Nam và giữ chức chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV.
Tác phẩm
– Truyện ngắn:
+ Nằm vạ (1940)
+ Mạ đậu (1940)
+ Chiều sương (1941)
+ Thuốc độc (1941)
+ Gặp gỡ (truyện, 1954)
+ Ánh mắt (truyện, 1961)
+ Trong gió cát (truyện ký, 1965)
+ Đường lớn (truyện, 1966)
+ Những tiếng hát hậu phương (truyện, 1970)
+ Hoa và thép (truyện, 1972)
+ Một cuộc đời (truyện, 1976)
+ Ý nghĩ ban mai (truyện, 1980)
+ Tâm tưởng (truyện, 1985)
+ Ngơ ngẩn mùa xuân (truyện, nhà xuất bản Đồng Nai, 1992)
+ Hai mươi lăm truyện ngắn 1940 – 1995 (1996)
+ Cái bóng cọc (truyện, 2002)
+ Tuyển truyện ngắn (2010)
– Tuyển tập Bùi Hiển (Tập I: 1987)
– Tuyển tập Bùi Hiển (Tập II: 1997)
– Tiểu luận:
+ Hướng về đâu văn học (1996)
+ 25 truyện ngắn 1940–1995 (1996)
+ Bạn bè một thuở (tiểu luận, hồi ký, chân dung văn học, 1999)
– Truyện cho thiếu nhi:
+ Bên đồn địch (1962)
+ Quỳnh xóm cháy (1965)
+ Nhớ về một mùa thị chín (1983)
– Bùi Hiển, tác phẩm và dư luận (2003)
– Truyện dịch:
+ Tuyển tập truyện ngắn, Antonov (1956)
+ Đội cận vệ thanh niên của Alexander Fadeev (dịch chung, 1960)
+ Những người chết còn trẻ mãi, Anna Seghers (dịch chung, 1963)
+ Những người yêu nữ thần biển, nhiều tác giả (1993)
+ Những truyện ngắn phương Đông, Marguerite Yourcenar (1996)
+ Bản di chúc Pháp, Andrei Makine (1998)
+ Những kẻ văn minh của CI.Farrère (1990)…
+ Chợ Ta-sken (chưa biết)
Giải thưởng
– Nhà văn nhận được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học và Nghệ thuật năm 2001 với các tác phẩm: Tuyển tập Bùi Hiển, Bạn bè một thuở, Ánh mắt, Ngơ ngẩn mùa xuân.
– Năm 2022: ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật với các tác phẩm: Trong gió cát, Hoa và thép, Tâm tưởng.
Phong cách sáng tác
Nhà văn Bùi Hiển là một trong những văn hiện thực xuất sắc, các sáng tác của ông đa phần là truyện ngắn nhưng phong phú, đa dạng dành cho mọi lứa tuổi. Bằng lăng kính quan sát tinh tế, nhạy bén cùng cảm nhận sâu sắc của một người nghệ sĩ, nhà văn đã thành công diễn tả trân thực hiện thực đời sống giản dị nhưng không kém phần vui tươi, tràn ngập màu sắc, sinnh động. Nhân vật xuất hiện trong những sáng tác của nhà văn được đắp nặn một cách kĩ lưỡng, từ nhân vật với thái độ hành động dứt khoát, phóng khoáng cho đến những nhân vật được nhà văn miêu tả sâu rộng hòa vào trong tâm trạng, xúc cảm, để làm bật nên tính cách, tâm hồn của nhân vật. Không gian nghệ thuật linh động, sáng tạo, mở rộng trong những suy nghĩ, tư tưởng của nhân vật. Thời gian được pha trộn, trộn lẫn giữa quá khứ, hiện tại, tương lai, và điều đó đã làm cho trang văn của Bùi Hiển trở nên đặc biệt, sáng tạo hơn, nổi trổi giữa hàng ngàn trang văn khác cùng thời. Việc dựng lên sự pha trốn giữa các tuyến thời gian cũng giúp cho con đường khai tác tâm lý, tâm trạng trở nên sâu sắc hơn. Cốt truyện không có quá nhiều yếu tố cao trào, giản đơn nhưng lại chứa đựng cái buồn man mác, những kỷ niệm vui vẻ,… đan xen vào nhau. Qua đó, những câu chuyện của nhà văn Bùi Hiển đem lại cho chúng ta một bức tranh hiện thực giản dị, nhẹ nhàng, thân thuộc nhưng không kém phần bồi hồi sâu lắng với những dòng cảm xúc sinh động tựa như chính tầm hồn của người nghệ sĩ.
Nhận định, đánh giá
– Trong Lược sử văn học Việt Nam, nhà nghiên cứu Thế Phong đã nhận định về truyện ngắn trước 1945 của Bùi Hiển như sau: “Truyện ngắn trước tiền chiến của ông có tính cách địa phương, viết rặt hình ảnh quê hương nơi ông sinh trưởng, cho nên Vũ Ngọc Phan cho rằng đọc Nằm vạ của Bùi Hiển âm hưởng như Eugène Roy của Pháp, tả người dân quê miền Nantes, những nét đậm đà như Chateaubriand viết La Brière hoặc Joseph de Pesquidoux trong Chez nous sur la glèbe.”
– Nhà văn Thạch Lam: “Lối viết của ông giản dị và mạnh mẽ, thoáng qua một chút duyên kín đáo, và có nhiều nhận xét tinh vi. Đó là một bức tranh có giá trị về cảnh sinh hoạt trong làng xóm.”
– Phó giáo sư Nguyễn Văn Long: “Bùi Hiển tiếp cận hiện thực với cách phát hiện riêng, không chói lòa rực rỡ, không phải bằng cảm hứng sử thi hào hùng mà ông ca ngợi phẩm chất con người trong mạch sống bền bỉ, âm thầm, luôn nhạy cảm trong cảnh ngộ éo le, nỗi đau oan trái. Ta thấy tác phẩm của ông dường như có vẻ lạc giọng theo dòng chính (âm hưởng anh hùng ca thời đại) mà theo mạch ngầm, theo âm trầm nốt lặng trong bản hợp ca hào hùng thời chiến tranh”.
– Phó Giáo sư Bích Thu: “Một nhà văn sống lặng lẽ, khiêm nhường mà tác phẩm lại luôn nổi bật, luôn hiện diện song hành với thời gian và người đọc, văn ông “không chịu nghiêng theo độ dốc tuổi tác”. Các truyện ngắn của ông từ thập niên bốn mươi đến những năm chín mươi của thế kỷ trước “văn không bị một nếp nhăn nào” hoặc nói như nhà văn Ma Văn Kháng: Vẫn là những truyện ngắn hay của ngày hôm nay, hiện đại, không hề xưa cũ”.
– Nhà thơ Hữu Thỉnh: “Là một người am hiểu Hán học và Tây học, suốt đời gắn bó với nhân dân, nhà văn Bùi Hiển là tinh hoa của vùng đất giàu truyền thống yêu nước và hiếu học…đem hết tài năng và tâm huyết nhằm “đánh thức cái lương tri, thiên lương sẵn có ở mỗi con người”.