Chế Lan Viên – một trong những cây bút sáng giá của văn chương Việt Nam ta. Chúng ta cùng đồng hành với nhau để tìm hiểu thêm về thông tin tác giả qua bài viết Giới thiệu tác giả Chế Lan Viên (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định) nhé!
Tiểu sử
– Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20/10/1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) – mất 19 tháng 6 năm 1989 (68 tuổi).
– Bút danh khác là Thạch Hãn, Chàng Văn, bút danh này thường được ông ký tên trên các bài báo và các bài viết ngắn in trên báo.
– Quê quán: xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.j
– Gia đình:
+ Chế Lan Viên lập gia đình lần đầu tiên vào năm 1943 với bà Nguyễn Thị Giáo, con của một đại phú hào, hai người có ba người con là Phan Lai Triều, Phan Trường Định và Phan Thị Chấn Thanh. Hai ngườ ly hôn vào năm 1959 khi ông sang Trung Quốc chữa bệnh.
+ Chế Lan Viên kết hôn lần thứ hai vào năm 1961 với nhà văn Vũ Thị Thường (tên thật là Lê Thị Kim Nga), hai người có hai người con laf Phan Thị Thắm và Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
– Học vấn: Ông lớn lên và theo học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hiện nay) thì nghỉ học.
Sự nghiệp
– Sau khi thôi học thì Chế Lan Viên đi dạy tư kiếm sống.
– Năm 1939: ông ra học tại Hà Nội.
– Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học.
– Năm 1942: ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
– Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến.
– Tháng 7 năm 1949: trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
– Năm 1954: Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học.
– Từ năm 1956 đến năm 1958: Ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ).
– Từ năm 1963: Chế Lan Viên là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Đồng thời ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa – giáo dục của quốc hội.
– Sau 1975: ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đến khi mất.
Tác phẩm
– Thơ:
+ Điêu tàn (1937), 37 bài thơ
+ Gửi các anh (1954), 13 bài thơ
+ Ánh sáng và phù sa (1960), 70 bài thơ
+ Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), 49 bài thơ
+ Những bài thơ đánh giặc (1972)
+ Đối thoại mới (1973), 64 bài thơ
+ Ngày vĩ đại (1976)
+ Hoa trước lăng Người (1976), 12 bài thơ
+ Dải đất vùng trời (1976)
+ Hái theo mùa (1977), 75 bài thơ
+ Hoa trên đá I,II (1984 – 1988), 15 và 16 bài thơ
+ Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985 tập II, 1990)
+ Ta gửi cho mình (1986)
+ Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)
+ Tuyển tập thơ chọn lọc
– Văn:
+ Vàng sao (1942)
+ Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963)
+ Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)
+ Bác về quê ta (tạp văn, 1972)
+ Giờ của đô thành (bút ký, 1977)
+ Nàng tiên trên mặt đất (1985)
– Tiểu luận phê bình:
+ Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)
+ Nói chuyện thơ văn (1960)
+ Vào nghề (1962)
+ Phê bình văn học (1962)
+ Suy nghĩ và bình luận (1971)
+ Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)
+ Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)
+ Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
+ Ngoại vi thơ (1987)
+ Nàng và tôi (1992)
Giải thưởng
– Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996)
Phong cách sáng tác
– Trước cách mạng tháng Tám: Thơ của Chế Lan Viên mang màu sắc kinh dị, thần bí, bế tắc với những hình ảnh tang thương đẫm máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Đúng với nghĩa là một trường thơ loạn.
– Sau cách mạng tháng Tám: khung hướng trong thơ của ông đã đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng, sự đổi thay hết sức rõ rệt.
– Trong thời kì năm 1960-1975: Thơ Chế Lan Viên vươn tới sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự xã hội.
– Sau năm 1975: Thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự cùng với những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.
-> Phong cách trong các tác phẩm của Chế Lan Viên mang nét độc đáo, sáng tạo, thể hiện sức mạnh trí tuệ trong ông qua những khuynh hướng suy tưởng, đậm chất triết lý, khai thác trọ vẹn các tương quan đối lập, giàu hình ảnh, nhiều ý nghĩa biểu tưởng sáng giá.
-> Thế nên mà thơ của Chế Lan Viên chính là sự kết tinh của thời đại lịch sử, thể hiện trọn vẹn mọi vẻ đẹp, táo bạo của con người Việt cũng như xã hội.
Nhận định, đánh giá
– Nhà văn Lê Thành Nghị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Hội Nhà văn Việt Nam đã khái quát tích cực đầy vẻ cảm thông: “Từ thuở viết Điêu tàn cho đến những tập cuối cùng của Di cảo, Chế Lan Viên đã làm cho người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Sức sáng tạo của Chế Lan Viên có thể nói là phi thường và dấu ấn thơ ông để lại trong đời sống tinh thần thời đại mà ông sống quả là vô cùng sâu sắc”.