Nhà thơ Chu Mạnh Trinh – một danh sĩ tài hoa, thông minh, sống trong triều đại nhà Nguyễn. Thơ ông tái hiện lại những bức tranh sơn dầu thiên nhiên, khung cảnh đất nước, thể hiện nỗi niềm của người thi sĩ. Cùng tìm hiểu về nhà thơ qua bài viết Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác).
Tiểu sử
– Chu Mạnh Trinh (sinh năm 1862 – mất năm 1905)
– Tự: Cán Thần.
– Hiệu: Trúc Vân.
– Quê quán: làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên
– Gia đình: Cha là Chu Duy Tĩnh, từng thăng quan đến chức Ngự sử.
– Học vấn: 19 tuổi đỗ Tú tài, Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông đỗ Tiến sĩ.
Sự nghiệp
– Sau khi đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, Chu Mạnh Trinh được bổ nhiệm giữ chức Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội.
– Lúc trở lại khi cáo quan về cư tang cha thì Chu Mạnh Trinh được thăng chức làm Án sát tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên.
– Ông thiết kế ngôi đền Đa Hòa thờ Chử Đồng Tử, chùa Thiên Trù (chùa trò)
Tác phẩm
– Hương Sơn phong cảnh ca
– Hương Sơn hành trình.
– Chơi chùa Hầm
– Cổ Loa hữu cảm
– Dạ Trạch tiên gia phú
– Đề Dương quý phi từ
– Tây Hồ cảm tác
– Vịnh Kiều: Thuý Kiều lưu lạc, Thuý Kiều oan trái, Tổng vịnh Truyện Kiều,…
– Tập thơ Trúc Văn thi tập (chữ Hán), Thanh Tâm tài nhân thi tập (chữ Nôm)
Giải thưởng, vinh danh
– Đỗ Giải nguyên trường Hương khoa thi Bính Tuất (năm 1885)
– Năm 1905, Chu Mạnh Trinh gửi bài tới dự cuộc thi Vịnh Kiều ở Hưng Yên và đoạt giải nhất với bài “Vịnh Kiều”
– Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại thành phố như: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà năng,… Huyện Văn Giang (Hưng Yên) có trường THCS đặt tên ông.
Phong cách sáng tác
Chu Mạnh Trinh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội phong kiến suy tàn, nước mất nhà tan bị thực dân Pháp xâm lược. Ông không muốn dính đến giặc ngoại xâm, nên có khuynh hướng thoát ly song những sáng tác của ông lại bộc bạch, thể hiện tình yêu đất nước, sự tự hào với văn hóa dân tộc. Nguồn cảm hứng sáng tác của ông cũng bắt nguồn từ những hành trình du ngoạn, ngắm cảnh, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Với tài năng, thông minh và tình yêu to lớn với văn chương thì Chu Mạnh Trinh có thể sử dụng được chữ Hán và chữ Nôm, phương thức nghệ thuật đảo ngữ, câu hỏi tu từ, vần, nhịp điệu kết hợp tạo nên tiết tấu chậm rãi, nhẹ nhàng, dịu êm. Hình ảnh tràn đây màu sắc, phong phú, da dạng tự như một bức tranh sơn dầu. Qua đó đa phần các sáng tác của nhà thơ đều thể hiện nỗi lòng mong cầu bình yên, an nhàn yêu khung cảnh quê hương, đất nước, thiên nhiên, nhất là trong bài thơ “Hương Sơn phong cảnh” chất chứa nỗi niềm của tác giả.