Nhà văn Giuyn Véc-nơ (Jules Gabriel Verne) là cha đẻ của thể loại văn học khoa học viễn tưởng. Những câu chuyện khoa học đi trước thời đại, thể hiện sự khát khao chinh phục thế giới tự nhiên của ông và với đó là truyền tải thông điệp, ý nghĩa nhân văn dành cho người đọc. Cùng Trạm văn học tham khảo bài viết Giới thiệu tác giả Giuyn Véc-nơ (Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, phong cách sáng tác) nhé!
Tiểu sử
– Giuyn Véc-nơ (Jules Gabriel Verne) sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 và mất ngày 24 tháng 3 năm 1905 tại thành phố Nantes, Pháp. Là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch và nhà thơ Pháp
– Cha là Pierre Verne, một luật sư, mẹ là Sophie Allote de la Fuÿe Verne, con gái của một gia đình tư sản chuyên làm chủ tàu buôn. Ông có bốn người em là Paul (sinh năm 1829), Anna (1836), Mathilde (1839) và Marie (1842).
– Lên 9 tuổi, Jules và em trai Paul được gửi vào Trường dòng Saint-Donatien dành cho thiếu niên ở Nantes. Một trong những thầy giáo của ông tại đây là Brutus de Villeroi, người sau này nổi tiếng với việc chế tạo chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ.
– Năm 11 tuổi, ông đã bí mật giấu cha mẹ thuê một chỗ trên một thuyền buồm 3 tầng để đi tới Ấn Độ khám phá nhưng đã bị cha bắt lại và từ đó ông không có chuyến đi nào nữa nhưng trong ông vẫn len lỏi sự quyết tâm muốn khám phá, trinh phục vùng đất mới.
– Năm 1840, gia đình Vernes lại chuyển đến một căn hộ lớn ở số 6 Rue Jean-Jacques-Rousseau, nơi đứa con út của gia đình, Marie, chào đời năm 1842.
– Cùng năm 1840, Verne học tại một trường tôn giáo khác Petit Séminaire de Saint-Donatien, với tư cách là một sinh viên giáo dân
– Từ năm 1844 đến năm 1846, Verne và anh trai theo học tại Lycée Royal (nay là Lycée Georges-Clemenceau ) ở Nante
– Sau khi học xong các lớp hùng biện và triết học, ông thi tú tài tại Rennes và nhận được điểm “Đủ tốt” vào ngày 29 tháng 7 năm 1846.
– Đến năm 1847, khi Verne 19 tuổi, ông đã nghiêm túc viết các tác phẩm dài theo phong cách của Victor Hugo. Tuy nhiên, cha ông lại cho rằng Verne, là con trai đầu lòng của gia đình, sẽ không nên kiếm tài bằng văn chương mà thay vào đó sẽ kế thừa công việc hành nghề luật sư của gia đình
– Năm 1847, cha của Verne gửi ông đến Paris, để ông bắt đầu học trường luật, và để tạm thời tách ông khỏi Nantes (theo truyền thuyết của gia đình)
– Sau một thời gian ngắn ở Paris, nơi ông đã vượt qua kỳ thi luật năm thứ nhất, Verne trở lại Nantes để nhờ cha ông giúp chuẩn bị cho năm thứ hai.
– Khi ở Nantes, ông gặp Rose Herminie Arnaud Grossetière, một phụ nữ trẻ hơn ông một tuổi, và yêu cô say đắm. Nhưng cha mẹ Grossetière không hài lòng với việc để con gái kết hôn với một sinh viên trẻ không có tương lai chắc chắn. Thế nên họ đã gả Grossetière cho Armand Terrien de la Haye, một chủ đất giàu có hơn cô mười tuổi. Cuộc hôn nhân đột ngột khiến Verne vô cùng thất vọng
– Vào tháng 7 năm 1848, Verne rời Nantes một lần nữa để đến Paris. Ông được cha cho phép thuê một căn hộ đầy đủ tiện nghi tại 24 Rue de l’Ancienne-Comédie, ở chung với Édouard Bonamy, một sinh viên khác gốc Nantes.
– Verne đến Paris trong thời kỳ có biến động chính trị. Ông sử dụng các mối quan hệ gia đình của mình để gia nhập xã hội Paris, chú của ông là Francisque de Chatêaubourg đã giới thiệuông vào các tiệm văn học. Trong khi tiếp tục học luật, ông vẫn nuôi dưỡng niềm đam mê của mình với sân khấu, viết nhiều vở kịch.
– Năm 1851, Verne bị liệt mặt. Cùng năm đó, Verne được yêu cầu nhập ngũ vào quân đội Pháp, nhưng quá trình xuất kích đã khiến anh vô cùng nhẹ nhõm.
– Tháng 1 năm 1852, cha ông đề nghị Verne hành nghề luật sư ở Nantes. Đối mặt với lời đề nghi ấy, Verne dứt khoát quyết định tiếp tục cuộc đời với văn chương của mình và từ chối công việc luật sư.
– Trong thời điểm đó Verne dành nhiều thời gian tại Bibliothèque nationale de France , tiến hành nghiên cứu các câu chuyện của mình và nuôi dưỡng niềm đam mê khoa học và những khám phá gần đây, đặc biệt là về địa lý và gặp nhà địa lý, nhà thám hiểm lừng danh Jacques Arago, người vẫn tiếp tục đi du lịch khắp nơi mặc dù bị mù
– Năm 1856, Jules Verne gặp người vợ tương lai của mình, bà Honorine de Viane Morel, người vợ góa 26 tuổi của ông Fraysne de Viane và đã có hai con riêng. Họ cưới nhau vào ngày 10 tháng 1 năm 1857 và đến năm 1861 thì đứa con duy nhất của hai người, Michel Verne ra đời.
– Ngày 16 tháng 3 năm 1867, cùng với em trai Paul Verne, Jules rời cảng Great Eastern ở Liverpool bắt đầu chuyến du hành bằng thuyền buồm đến Mỹ
– Trong Chiến tranh Pháp – Đức năm 1870, Jules Verne cũng được gọi nhập ngũ, tuy nhiên ông vẫn không ngừng công việc sáng tác của mình
– Năm 1872, Jules Verne chuyển đến sống ở vùng Amiens, quê vợ ông
– Jules Verne cũng rất hay thực hiện những chuyến đi trên những chiếc Saint-Michel của ông, từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1878, Jules Verne đi từ Lisboa đến Alger, sau đó là chuyến đi dài qua Scotland, Na Uy, Ireland năm 1880 và chuyến du hành trên biển Địa Trung Hải cùng vợ năm 1884.
– Vào ngày 24 tháng 3 năm 1905, trong khi bị bệnh tiểu đường mãn tính và biến chứng do đột quỵ làm liệt nửa người bên phải, Verne qua đời tại nhà riêng ở Amiens , 44 Boulevard Longueville (nay là Boulevard Jules-Verne)
Sự nghiệp
– Verne trở thành bạn thân với con trai của Alexandre Dumas, Alexandre Dumas fils vào năm 1849 thông qua sự quen biết chung của một nhà trị liệu học nổi tiếng thời bấy giờ, Chevalier d’Arpentigny. Hai chàng trai trẻ đã cùng nhau sửa lại vở kịch, và Dumas, thông qua sự sắp xếp của cha mình, đã sản xuất vở kịch này cho Nhà hát Opera -National tại Nhà hát Lịch sử ở Paris, khai mạc vào ngày 12 tháng 6 năm 1850
– Các bộ phim của Dumas đã giúp Verne tiếp xúc với Jules Seveste ( đạo diễn sân khấu, người đã đảm nhận vị trí giám đốc của Nhà hát Lịch sử và đổi tên nó thành Nhà hát Lyrique), Verne trở thành thư ký của nhà hát với mức lương ít ỏi hoặc không kèm theo, nhưng ông đã sử dụng cơ hội này để viết và sản xuất một số vở opera, được viết với sự cộng tác của Hignard và nghệ sĩ hát bội nổi tiếng Michel Carré
– Để kỷ niệm công việc của mình tại Théâtre Lyrique, Verne đã cùng với mười người bạn thành lập câu lạc bộ ăn uống Onze -sans-femme dành cho cử nhân
– Verne còn dành nhiều thời gian tại Bibliothèque nationale de France, tiến hành nghiên cứu các câu chuyện của mình và nuôi dưỡng niềm đam mê khoa học và những khám phá gần đây, đặc biệt là về địa lý.
– Năm 1856 công việc của Verne cho tạp chí bị cắt ngắn khi ông cãi cọ nghiêm trọng với Pitre-Chevalier và từ chối tiếp tục đóng góp (ông vẫn từ chối cho đến năm 1863, khi Pitre-Chevalier qua đời, và tạp chí chuyển sang vai trò biên tập viên mới ).
– Từ năm 1862, công tác với nhà xuất bản Pierre-Jules Hetze, một trong những nhân vật quan trọng nhất của ngành xuất bản Pháp thế kỉ 19, cho đến khi Hetze qua đời
– Năm 1888, Jules Verne được bầu làm Ủy viên hội đồng vùng Amiens trong danh sách những người cánh hữu
– Năm 1903, Jules Verne trở thành chủ tịch hội những người truyền bá Quốc tế ngữ vùng Amiens
Tác phẩm
– Tiểu thuyết:
+ 1851: Un drame au Mexique
+ 1855: Un hivernage dans les glaces
+ 1859: Voyage à reculons en Angleterre et en Écosse
+ 1861: Joyeuses misères de trois voyageurs en Scandinavie (xuất bản lần đầu năm 2003)
+ 1862: Le Comte de Chanteleine
+ 1863: Cinq semaines en ballon – Năm tuần trên khinh khí cầu (Trần Tú-Quốc Khánh, 2007); Paris au XXe siècle – Paris thế kỷ 20 (Xuất bản lần đầu năm 1991)
+ 1864: Les Aventures du capitaine Hatteras – Những cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Hatteras( Xuất bản từ năm 1864 đến 1867); Voyage au centre de la Terre: Du hành vào lòng địa cầu (Lê Quang Nghĩa, 1972) – Cuộc thám hiểm trong lòng đất (Phan Nhuận, 1987) – Hành trình vào lòng đất (Hoàng Hải và Trương Đình Nguyên, 1996) – Cuộc thám hiểm vào lòng đất (Trần Ngọc Thanh và Giang Hà Vỵ, 2000) – Hành trình vào tâm Trái Đất (Phương Quỳnh và Trần Tú, 2007)
+ 1865: De la Terre à la Lune: Từ Trái Đất đến Mặt Trăng (Thanh Yên dịch, NXB Văn học 2017) – Hành trình từ Trái Đất lên Mặt Trăng (Duy Lập dịch, NXB Văn hóa Thông tin 2006) – Cuộc hành trình 97 giờ (Duy Lập dịch, NXB Thanh Niên 1989); Les forceurs de blocus
+1866: es Enfants du capitaine Grant: Những đứa con của thuyền trưởng Grant (Phạm Hậu dịch, 1985) – Cuộc tìm kiếm những thủy thủ bị mất tích (Bông Mai dịch, 2006)
+ 1869: Vingt mille lieues sous les mers – Hai vạn dặm dưới biển (Lê Anh, 1976) – 20.000 dặm dưới đáy biển (Nguyễn Quân, trước 1975); Autour de la Lune – Bay quanh Mặt Trăng (Nguyễn Thành Thống, 1988) – Lên Cung trăng (Trúc Đỳnh, 1944)
+ 1870: L’Oncle Robinson (Xuất bản năm 1991)); Le Chancellor ( Xuất bản từ năm 1870 đến 1874);Aventures de trois Russes et de trois Anglais dans l’Afrique australe – Những cuộc phiêu lưu của ba người Nga và ba người Anh ở Nam
+ 1871:Une ville flottante ; Le Pays des fourrures – Đất nước của những tấm da (Vũ Anh Việt dịch, NXB Văn học 2012)
+ 1873: Le Tour du monde en quatre-vingts jours – Vòng quanh thế giới trong 80 ngày (Duy Lập, 1985) – Vòng quanh thế giới 80 ngày (Hà Mai Anh, 1957); L’Île mystérieuse – Hòn đảo bí mật (Lê Văn Trí-Lê Quang Nghĩa, 1972) – Hòn đảo huyền bí (Ngô Quang Kiệt, Vũ Sữu, Nguyễn Văn Diễm dịch (3 tập), 1987) – Bí mật đảo Lincoln (Phạm Hậu, 1988)
+ 1874:Martin Paz; Hector Servadac: Xuất bản từ năm 1874 đến 1876
+ 1876: Michel Strogoff : Tình yêu qua 6 nghìn dặm (Vũ Liêm, 1995); Les Indes noiresf ( Xuất bản từ năm 1876 đến 1877)
+ 1877 Un capitaine de quinze ans: Thuyền trưởng 15 tuổi ( Hà Mai Anh, 1969) – Thuyền trưởng tuổi 15 (Giang Hà Vỵ và Hoài Giang, 1988 /Xuất bản từ năm 1877 đến 1878)
+ 1878: Les Tribulations d’un chinois en Chine
+ 1879: La Maison à vapeur, Les Cinq Cents Millions de la Bégum, Les révoltés de la Bounty
+ La Jangada (1880): 800 Dặm Trên Sông Amazon – Tám trăm dặm trên sông Amazon ( Mạnh Tuấn dịch, NXB Thời Đại 2011)
+ 1881: L’École des Robinsons, Le Rayon vert: Tia sáng xanh
+ Kéraban-le-Têtu (1882)
+ 1883: Archipel en feu – Khảo cổ trên lửa, L’Étoile du sud – Ngọc phương Nam (Bảo Chấn dịch, NXB Hội nhà văn 2013), Mathias Sandorf – Mathias Sandorf (Xuất bản từ năm 1883 đến 1884)
+ 1884: L’Épave du Cynthia – Chú bé thoát nạn đắm tàu (Viết cùng André Laurie, Phạm Hậu dịch, 1985)
+ 1885: Robur le conquérant Robur – kẻ xâm lăng; Un billet de loterie – Tấm vé số (Đức Huy, NXB Kim Đồng 1989) – Người về từ biển (NXB Kim Đồng 1983); Nord contre Sud ( Xuất bản từ 1885 đến 1886); Le Chemin de France (Chuyến bay đến Pháp)
+ 1886: Deux ans de vacances – Hai năm trên hoang đảo (Đinh Khắc Phách, 2017
Xuất bản từ năm 1886 đến 1887)
+ 1887: Famille-sans-nom (Xuất bản từ năm 1887 đến 1888)
+ 1888: Sans dessus dessous – Phi vụ mua Bắc Cực
+ 1889: Le Château des Carpates – Bí mật Lâu đài Các-pát (Hoàng Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Hải Phòng, 1984); (César Cascabel Xêda Caxcaben NXB Kim Đồng, 1999)
+ 1890: Mistress Branican
+ 1891 Claudius Bombarnac; P’tit-Bonhomme; La Journée d’un journaliste américain en 2889
+ 1892: Mirifiques aventures de maître Antifer
+ 1893: L’Île à hélice – Đảo xoắn ốc; Un drame en Livonie
+ 1894: Le Superbe Orénoque – Dòng sông tráng lệ (Hà Mai Anh, 1975); Face au drapeau
+ 1895: Clovis Dardentor; Le Sphinx des glaces – Nhân sư trên băng
+ 1896: Le Village aérien – Ngôi làng trên ngọn cây (Xuất bản năm 1901 với tên La Grande Forêt); Seconde patrie
+ 1897: Le Testament d’un excentrique; En Magellanie – Những kẻ sống sót của Jonathan (Michel Verne đã sửa lại bản thảo và xuất bản với tên Les Naufragés “Jonathan”)
+ 1898: Le Secret de Wilhelm Storitz – Thuật Tàng Hình của Vi-Liêm (Hà Mai Anh dịch) – Một lễ cưới khác thường (Bạch Lan dịch, NXB Trẻ 1988); La Chasse au météore – Đuổi theo thiên thạch vàng; Les Frères Kip
+ 1899: Les Histoires de Jean-Marie Cabidoulin; Bourses de voyage; Le Volcan d’or (Xuất bản lần đầu năm 1989)
+ 1901: Le Beau Danube jaune; Le Phare du bout du monde – Cây đèn biển nơi tận cùng thế giới (Bạch Văn Minh dịch, 1987) – Ngọn hải đăng nơi cuối trời (Phan Nam dịch, NXB Trẻ 2003); Le Pilote du Danube – Người hoa tiêu trên sông Danube (Trần Thanh Phong, NXB Văn nghệ Tp.HCM 1989) – Người đàn bà trên tàu (Ngô Tự Lập dịch, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1994)
+ 1902: Maître du Monde – (Chúa tể thế giới Xuất bản từ năm 1902 đến năm 1903)
+ 1905: L’Invasion de la mer – Xâm chiếm biển khơi; L’Étonnante Aventure de la Mission Barsac – Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac (Nguyễn Thượng Khôi dịch, NXB Trẻ 1988)
– Tập truyện ngắn:
+ 1874: Le Docteur Ox
+ 1910: Hier et demain; L’éternel Adam
– Truyện cổ tích
+ 1854: Maître Zacharius ou l’horloger qui avait perdu son âme
– Kịch:
+ 1850, Les Pailles rompues (Những cọng rơm gầy)
Giải thưởng
– Năm 1870, ông được tặng thưởng huân chương Bắc đẩu bội tinh (Légion d’honneur)
Phong cách sáng tác
Nước Pháp thời bấy giờ, những tác phẩm của nhà văn Verne đã đem đến những bức tranh đầy sinh động và vô cùng sáng tạo. Với tình yêu mãnh liệt đối với văn chương và sẵn sàng thoát khỏi kế hoạch định sẵn tương lai của cha, Verne đã thể hiện bản lĩnh của mình bằng hàng loạt các tác phẩm trong suốt quãng thời gian sinh sống, và cho đến nay các tác phẩm ấy vẫn luôn được xuất bản đi khắp các nước trên thế giới.
Những câu chuyện, tình huống, hành động, suy nghĩ của nhât vật trong các tác phẩm đã bộc lô lên nên trí tưởng tượng phong phú đi trước thời đại của nhà văn, và tầm hiểu biết của ông trong khắp lĩnh vực nghiên cứu như địa lý. Nhà văn sử dụng cách nhìn, cách cảm, tư duy và cuốn trí thức của bản thân mình để xây dựng câu chuyện hợp lý, có ý nghĩa, thể hiện khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên, những vùng đất mới, song trong đó, ngôn từ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời thường, giúp người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt được tiết tấu câu chuyện, hình ảnh phóng đại, như con quái vật Bạch tuộc trích trong tiểu thuyết Hai vạn dặm dưới đáy biển. Về những nhân vật đồng thời là đại diện cho ý trí, tinh thần, mong muốn gửi gắm đến cho độc giả của nhà văn, những con người dũng cảm, không ngại khó khăn gian khổ, mạnh mẽ chiến đấu với những thử thách trong hành trình thám hiểm của bản thân, và còn đề cao tinh thần đoàn kết.
Như vậy với tài năng, tâm hôn yêu văn chương mà muốn nghiên cứu, khám phá chân trời mới, nhà văn Verne đã thực sự hoàn thành được nhũng bức tranh tràn ngập màu sắc, với khung cảnh khác nhau, song lại chứa đựng bài học ý nghĩa nhân văn, muốn người đọc chiêm nghiệm, thấm nhuần triết lý nhân sinh sâu sắc ấy.