Giới thiệu tác giả Lê Quý Đôn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định)

Bình chọn

Lê Quý Đôn là nhà bác học tài ba trong lịch sử Việt Nam ta. Ông không chỉ ghi dấu ấn trong các lĩnh vực sử, triết, xã hội,.. mà còn có tên trong thơ ca nước nhà. Cùng tìm hiểu về nhà thơ, nhà bác học qua bài viết Giới thiệu tác giả Lê Quý Đôn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định) nhé!

Hướng dẫn đọc nhanh

Tiếu sử

– Lê Quý Đôn (2/8/1726 – 11/6/1784 ). Tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu , hiệu Quế Đường.

– Quê quán: làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

– Gia đình: Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721) và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn tên Trương Thị Ích, là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu. Ông cưới bà Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718). Ông có bốn con trai: Lê Quý Kiệt, Lê Quý Châu, Lê Quý Tá và Lê Quý Nghị.

– Học vấn: Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long (Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia). Vào năm 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên.

Giới thiệu tác giả Lê Quý Đôn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định)

Sự Nghiệp

– Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần, ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”) được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749)

– Năm 1752, ông 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn.

– Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753), Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).

– Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác “6, 7 viên quan ăn hối lộ”.

– Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên).

– Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa… rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất.

– Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này ông viết Quần thư khảo biện.

– Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760).

– Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỷ sách vở.

– Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong năm này, ông được cử coi thi Hội.

– Trong năm Giáp Thân (1764) ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.

– Năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám dâng lên vua Lê Hiển Tông đọc.

– Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa.

– Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh.

– Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ, kiêm Thiêm đô Ngự sử.

– Tháng 5, năm 1773, chúa Trịnh Sâm hạ lệnh cho Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Phương Đĩnh và Lê Quý Đôn làm lại sổ hộ tịch, sau đó Trịnh Sâm thay đổi mệnh lệnh, cho Ngũ Phúc cùng Quý Đôn đều giữ công việc đôn đốc làm sổ.

– Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long.

– Tháng 2 năm Ất Mùi (1775), chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán.

– Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ, để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn.

– Năm Mậu Tuất (1778), được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu.

– Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức.

– Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán.

– Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công.

Vinh danh

– Sau khi ông mất chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư.

– Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công.

– Hiện nay có nhiều trường học, con đường mang tên Lê Quý ĐÔn

Tác phẩm

– Các sách bàn giảng về kinh, truyện:

+ Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch), gồm 6 quyển.

+ Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772.

+ Xuân thu lược luận (Bàn tóm lược về Kinh Xuân Thu).

– Các sách khảo cứu về cổ thư:

+ Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách)

+ Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền).

+ Vân Đài loại ngữ

– Các sách sưu tập thi văn:

+ Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước Việt)

+ Hoàng Việt văn hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua)

– Các sách khảo về sử ký địa lý:

+ Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”),

+ Đại Việt sử ký tục biên (Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên hợp soạn)

+ Bắc sứ thông lục (Chép đủ việc khi đi sứ sang Trung Quốc)

+ Phủ biên tạp lục (chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy)

+ Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều thấy nghe)

+ Âm chất văn chú

+ Lịch đại danh thần ngôn hành lục

– Thơ văn:

+ Liên châu thi tập

+ Quế Đường thi tập  (Bắc Trấn hỷ vũ; Cổ Lộng thành; Do bản quốc phụ nữ phiêu bạt nội địa hữu cảm; thứ Huệ Hiên vận; Du độ Kiển thiệp tiểu giản đắc bình địa kỳ 1, 2;  Dũng Liệt giang thượng; Đại Đăng xuyên; Đăng Xuyên Sơn nham; Đề Chích Trợ sơn;…)

+ Quế Đường văn tập

+ Du Bích Đào động

+ Đề Yên Tử sơn

+ Gia Cát Lượng

+ Mẹ ơi con muốn lấy chồng

+ Rắn đầu rắn cổ (Tự trách mình)

+ Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ 1

+ Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ 2

+ Trương Lương

+ Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử

+ Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công tô điểm má hồng răn đen

+ Liên châu thi tập

+ Quế Đường văn tập (tập văn Quế Đường), gồm 3 quyển.

Phong cách sáng tác

– Lê Quý Đôn là nhà bác học tài ba trong lịch sử Việt Nam ta. Những tác phẩm nghiên cứu của ông đều xuất phát từ sự nghiên cứu, tổng hợp kỹ lưỡng, phân tích và đánh giá của chính bản thân ông. Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực như triết, luật, sử, xã hội, thiên văn,… Chính vì lẽ đó mà người đương thời gọi ông là “Túi khôn của thời đại”.

– Trong các sáng tác thơ ca của mình, Lê Quý Đôn làm thơ với ba tiêu chí là tình, cảnh và việc. Thơ ông mang theo nhiều xúc cảm nghệ thuật, từ tình cảm trong sáng giản dị khi trở về làng quê, cho đến nỗi sầu buồn, lắng lo cho cảnh nắng hạn,..

=> Nhà nho yêu nước Lê Quý Đôn với phong cách khám phá, khắc họa tình cảnh đã giúp cho người đọc thấu hiểu được tình yêu quê hương đất nuosc, con người trong trái tim danh sĩ, tưởng tượng hình ảnh, tình cảnh nước nhà, con người thấy bấy giờ và đúc kết được nhều kinh nghiệm trong các lĩnh vực.

Nhận định, đánh giá

Phan Huy Chú viết: “Ông là người học vấn rộng, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng, lời văn hồn nhiên…, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia”.