Lý Bạch – “Thi tiên” của Trung Quốc, với phong cách sáng tác thơ ca rất đỗi đặc biệt cùng nhiều chủ đề khác nhau, đã tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Cùng tìm hiểu về nhà thơ qua bài viết Giới thiệu tác giả Lý Bạch (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác) nhé!
Tiểu sử
– Lý Bạch sinh ngày 19 tháng 5 năm 701 – mất ngày 30 tháng 11, 762 sau Công nguyên.do đuối nước.
– Tự: Thái Bạch. Hiệu: Thanh Liên cư sĩ. Ông có một số bút hiệu như: hậu bối tôn làm Thi Tiên hay Thi Hiệp, Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên
– Quê quán: Lũng Tây (nay thuộc tỉnh Cam Túc). lúc mới 5 tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên)
– Gia đình:
+ Nhà thơ là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường, cụ thể là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành.
+ Lý Bạch có hai người vợ chính thức là Hứa thị phu nhân là người vợ chính thức đầu tiên (cháu gái của Hứa tướng công) và cháu gái của tể tướng Tông Sở Khách, hai người vợ khác của ông là một người đàn bà họ Lưu, một người không rõ họ tên chỉ biết lòng da hẹp hòi.
+ Ông có hai người con với người vợ đầu.
– Học vấn: Lý Bạch suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.
Sự nghiệp
– Năm 15 tuổi, nhà thơ Lý Bạch viết bài phú ngạo khá nổi tiếng, có tên “Tư Mã Tương Như” để gửi cho Hàn Kinh Châu.
– Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ
– Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Trường An…
– Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới.Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, “có thể sánh với Tư Mã Tương Như”.
– Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triề-u đình. Được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận
– Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) ông đến Cối Kê, sau đó cùng bạn về Trường An, ở đây ông gặp thái tử tân khách Hạ Tri Chương, trở nên đôi bạn rượu – thơ thân. Đông thời ông được Hạ Tri Chương tiến cử lên vua Đường Minh Hoàng, vua Đường nghe danh đã lâu nên rất thích, mời vào điện Kim Loan giao việc thảo thư từ, sau được phong làm Hàn Lâm, chuyên giữ việc mật. Được vua Đường và Dương Quý Phi yêu thích. Tại đây, cùng với Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tần, Trương Húc, Tiêu Toại, Lý Thích Chi hợp thành nhóm “Tửu trung bát tiên”
-Từ năm 745, cuộc sống trong cung có làm kẻ gièm pha, nên ông đã rời cung đi du lãm. Trên đường đi, Lý Bạch gặp và kết thân tình với nhiều thi sĩ như Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích…
– Khoảng năm 755, khi đang ở ẩn tại Bình phong Điệp cùng Nguỵ Hạo ở Quảng Lăng. Lý Bạch được Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời về phủ. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Uý đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi.
– Sang năm 757 bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm xuống tội đi đày.
– Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó, tuy nhiên tuổi già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng.
– Đến năm 762, vua Đường Đại Tông lên ngôi, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi.
Tác phẩm
– Tĩnh dạ tứ
– Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
– Thương tiến tửu
– Vọng Lư sơn bộc bố
– Hiệp khách hành
– Anh Vũ châu
– Bá Lăng hành tống biệt
– Ba nữ từ
– Bả tửu vấn nguyệt
– Bạch đầu ngâm
– Bạch lộ tư
– Bạch vân ca tống Lưu thập lục quy sơn
– Chiến thành nam
– Chiết hà hữu tặng
– Cổ lãng nguyệt hành
– Đại tặng viễn
– Đảo y thiên
– Đáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân
– Đáp Vương thập nhị hàn dạ độc chước hữu hoài
– Đăng cao khâu nhi vọng viễn hải
– Đăng Hoàng sơn Lăng Hiêu đài tống tộc đệ Lật Dương uý Tế sung phiếm chu phó
– Hoa Âm…
Phong cách sáng tác
– Phong cách sáng tác thơ của Lí Bạch rất đỗi hào phóng, bay bổng, tự nhiên, cũng mang theo sự tinh tế, nhẹ nhàng. Chủ đề mà nhà thơ hướng đến liên quan đến phong cảnh, hoa lá, tình thân, tình yêu quê hương, nỗi khổ,…
– Đặc trưng nổi bật trong thơ Lí Bạch chính là sự thống nhất giữa cái cao cả và cái đẹp.