Giới thiệu tác giả Nguyễn Du (tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, phong cách sáng tác)

5/5 - (1 bình chọn)

Là một trong những tác giả nổi tiếng nhất trong làng văn chương Việt Nam, Nguyễn Du đã không còn là một cái tên xa lạ đối với chúng ta. Hãy cùng Trạm Văn Học tìm hiểu những thông tin về tác giả Nguyễn Du thông qua bài viết Giới thiệu tác giả Nguyễn Du (tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, phong cách sáng tác) nhé!

Tiểu sử

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du (tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, phong cách sáng tác)

– Sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 – Mất ngày 16 tháng 9 năm 1820.

– Tên viết theo chữ Hán: 阮攸.

– Tên tự: Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒).

– Biệt hiệu: Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠).

– Quê quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

– Gia đình: Cha ông là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1776), đỗ nhị giáp Tiến sĩ, sau này ra làm quan đến chức Tham Tụng (Tể tướng) dưới triều nhà Lê.

Sự nghiệp

– Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du tham gia thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Sinh đồ). Ông được tập ấm chức Chánh Thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên thay mặt anh trai cùng cha khác mẹ Nguyễn Khản.

– Cuối năm 1790, sau ba năm phiêu bạt nơi đất khách, Nguyễn Du trở về thành Thăng Long.

– Năm Quý Hợi (1803),Nguyễn Du đem quân lương từ Quỳnh Hải đi đón vua Gia Long ra thăm đất Bắc. Khi đi đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp được vua Gia Long. Vua ngay lập tức phong ông làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên).

– Chỉ mấy tháng sau khi được thăng thành tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông được đặc cách lên ải Nam Quan để tiếp doàn sứ giả nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.

– Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng thành Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

– Năm Đinh Mão (1807), ông được chuẩn làm giám khảo kỳ thi Hương tại Hải Dương.

– Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông dâng tấu xin phép về quê nghỉ.

– Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) tại Quảng Bình.

– Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng chức thành Cần chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được nhà vua cử làm chánh sứ đi sứ sang nhà Thanh.

– Năm 1814, sau khi ông đi sứ về đã được thăng thành Lễ bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).

– Năm Bính Tý (1816), bởi vì cháu rể Nguyễn Du là Vũ Trinh có liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.

– Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long băng hà, Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi vua cha – tức vua Minh Mạng. Nguyễn Du khi này được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức 16 tháng 9 năm 1820).

Tác phẩm

Tác phẩm bằng chữ Hán:

+ Thanh Hiên tiền hậu tập (được sáng tác chủ yếu trong những năm tháng trước khi Nguyễn Du làm quan dưới triều nhà Nguyễn).

+ Nam trung tạp ngâm (được viết trong khoảng từ năm 1805 đến cuối năm 1812, thời gian này ông đang làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh).

+ Bắc hành tạp lục (tập thơ được viết trong thời gian ông đi sứ sang Trung Quốc).

Tác phẩm bằng chữ Nôm:

+ Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)

+ Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh)

+ Thác lời trai phường nón

+ Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ

Phong cách sáng tác

– Tư tưởng nhân đạo – Giá trị nhân văn cao cả: Nguyễn Du luôn đề cao giá trị con người, đặc biệt là những số phận nhỏ bé, bất hạnh trong xã hội. Qua các tác phẩm của mình, ông thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những nỗi đau, những thiệt thòi mà con người phải gánh chịu. Các tác phẩm của ông, qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với số phận con người, đặc biệt là khi đứng trước những nghịch cảnh. Chính từ sự quan sát, suy ngẫm về đời sống con người, Nguyễn Du đã phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người và khơi gợi lên những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.

– Lên án xã hội phong kiến và tố cáo thế lực đen tối: Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để khẳng định giá trị tự thân của con người. Những tác phẩm của ông, đặc biệt là thơ chữ Hán, luôn bộc lộ sự trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc. Bằng ngòi bút sắc bén, ông đã lên án những thế lực đen tối đang chà đạp lên con người, làm bộc lộ sự bất công và tàn nhẫn trong xã hội.

– Thơ Nguyễn Du – Tấm gương phản chiếu số phận con người: Một trong những điểm đặc biệt trong thơ Nguyễn Du là khả năng khắc họa số phận con người với những suy nghĩ, cảm xúc hết sức tinh tế. Trong những tác phẩm của mình, nhân vật không chỉ đau buồn về số phận của mình mà còn biết tự thương chính mình. Đây là điều thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều – một người con gái xinh đẹp, tài năng nhưng phải chịu đựng những bi kịch khủng khiếp của cuộc đời. Sự tự ý thức về số phận, cùng với nỗi xót xa cho chính mình, đã làm cho các nhân vật trong thơ Nguyễn Du trở nên gần gũi và đầy tính nhân văn.

– Tính dân tộc trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ: Thơ Nguyễn Du đậm chất dân tộc, không chỉ vì sự kết hợp giữa chữ Hán và chữ Nôm mà còn bởi việc sử dụng các chất liệu văn học dân gian như ca dao, tục ngữ, đặc biệt là thể thơ lục bát và song thất lục bát. Những thể thơ này giúp tác phẩm của ông dễ tiếp cận và dễ đi vào lòng người, đồng thời cũng làm cho các nhân vật trong Truyện Kiều trở nên sống động và chân thực. Ngôn ngữ của Nguyễn Du không chỉ giàu tính biểu cảm mà còn đầy hình ảnh, giúp người đọc hình dung rõ ràng về những cảnh đời, những số phận mà ông muốn khắc họa.

=> Với trái tim đầy yêu thương và lòng nhân đạo, Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút của mình để khơi gợi những giá trị sâu sắc về con người, về số phận, về khát vọng sống và yêu thương. Sáng tác của ông không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao mà còn là những bài học về nhân đạo và về sự đấu tranh của con người trong xã hội.

Nhận định, đánh giá

Nhà thơ Ánh Tuyết: “Hội Kiều học Việt Nam tại Thái Bình ra đời năm 2013 nhằm tuyên truyền, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Truyện Kiều, đồng thời nghiên cứu, sưu tầm những tư liệu, những ý kiến phê bình, phát hiện về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Từ khi thành lập, Hội đã công bố hai cuốn sách “Thái Bình với Nguyễn Du và Truyện Kiều” tập 1 và tập 2, tập hợp nhiều bài nghiên cứu, nhiều sáng tác thể hiện tấm lòng của người Thái Bình với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Hy vọng, đây sẽ là những tư liệu quý, góp phần vào quá trình nghiên cứu Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều.”

Nhà thơ Lại Tây Dương: ” Nhờ Đại thi hào Nguyễn Du, ngôn ngữ dân tộc Việt Nam trở lên lấp lánh, có hồn và tạo ra được bản sắc riêng biệt. Truyện Kiều là một truyện thơ dài với hơn ba nghìn câu nhưng không câu nào “đuối”. Cách nhà thơ sử dụng ngôn ngữ thực sự mang tính phát hiện, sáng tạo, tài tình. Đọc, ngẫm và nghiên cứu Truyện Kiều, tôi đã học được cách dùng từ, sử dụng biện pháp tu từ đạt hiệu quả cao, từ đó vận dụng trong các sáng tác của mình.”

Cán bộ tư pháp Vũ Văn Pho: “Được học Truyện Kiều của Nguyễn Du trên ghế nhà trường, tôi thực sự tự hào vì đất nước mình có một kiệt tác văn học mang tầm thế giới. Đọc Truyện Kiều, nhìn về quá khứ, tôi thấy may mắn vì mình được sinh ra và lớn lên trong xã hội quyền dân chủ được đề cao, con người được tôn trọng, được tự do trong tình yêu lứa đôi.”