Giới thiệu tác giả Phạm Huy Thông (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định)

Giới thiệu tác giả Phạm Huy Thông về tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm chính, phong cách sáng tác, giải thưởng vinh danh, nhận định và bình luận

Giới thiệu tác giả Phạm Huy Thông về tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm chính, phong cách sáng tác, giải thưởng vinh danh, nhận định và bình luận

1. Tiểu sử

– Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề kinh doanh lớn, có tinh thần dân tộc. Nguyên quán ở làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957. Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mất ngày 23- 6-1988 tại Hà Nội.

– Ông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão, và là thế hệ thứ 48 của thượng thủy tổ Phạm Tu. Cha ông là nhà tư sản Phạm Chân Hưng, chủ hiệu vàng Chân Hưng (quê gốc Hưng Yên), là người giàu có tiếng ở phố Hàng Bạc trước Cách mạng Tháng Tám, cũng là chủ tờ báo Nông – Công – Thương, chủ tịch khu Đông Kinh Nghĩa Thục (bao gồm phố Hàng Bạc và nhiều khu phố lân cận), chủ tịch Tuần lễ vàng đầu tháng 9-1945 do Hồ Chí Minh phát động.

2. Sự nghiệp

– Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là một người có trí thông minh. Mới 16 tuổi ông đã nổi tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, điển hình là bài Tiếng địch sông Ô.

– Năm 21 tuổi, ông đỗ cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương.

– Năm 1937, ông sang Pháp tiếp tục theo học chương trình đào tạo trên đại học các ngành Sử, Địa, Luật, Kinh tế, Chính trị.

– Năm 26 tuổi, ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ sử địa tại Pháp. Năm 31 tuổi, ông được phong Giáo sư giữ chức Uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp.

– Năm 1946 tại Paris, ông được chọn giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở hội nghị Fontainebleau. Chính những ngày được gần gũi Chủ tịch Hồ Chí Minh ông đã chọn cho mình con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đi.

– Năm 1949, ông gia nhập Đảng cộng sản Pháp.

– Năm 1952, ông phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Cũng trong năm đó ông bị trục xuất khỏi Pháp về Sài gòn.

– Năm 1953, ông gia nhập Đảng Lao động Việt Nam.

– Đầu năm 1955, ông bị chính quyền Pháp đưa về quản thúc tại Hải Phòng.

– Sau khi thoát khỏi nhà tù ông đảm nhiệm cương vị hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967-1988), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại biểu Quốc hội khóa II, III.

– Trong phong trào chống Nhân văn – Giai phẩm, Phạm Huy Thông cũng có bài viết phê phán nhà triết học Trần Đức Thảo.

– Năm 1987, ông được bầu Viện sĩ nước ngoài Viện hàn lâm Khoa học Cộng hoà Dân chủ Đức. Phạm Huy Thông đã thể hiện là một người đặc biệt có tài về tổ chức và kinh nghiệm lãnh đạo.

– Ông mất trong vụ án mạng bí ẩn tại nhà riêng vào tháng 6 năm 1988 ở Hà Nội.

3. Tác phẩm chính

* Thơ:

– Tiếng địch sông Ô (1936)

– Con voi già

– Anh Nga (1936)

– Tiếng sóng (1934)

– Yêu đương (1934)

– Lòng hối hận (kịch thơ, đăng dở trên Hà Nội báo, 1936)

– Tần Ngọc (thơ, 1937)

– Tây Thi (thơ, 1937)

– Cái én (kịch thơ, 1966)

* Sử học, Khảo cổ học:

– Thời đại các Vua Hùng dựng nước

– Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên

– Khảo cổ học với văn minh thời Trần

4. Phong cách sáng tác

– Thơ Phạm Huy Thông chủ yếu là thơ tình yêu. Ông say đắm và lắm lời. Thơ tình của ông thiên về ca ngợi sắc đẹp và giãi bày nỗi si tình. Ông ít khám phá tâm trạng, ít sáng tạo tình cảm nên mạch thơ cứ đều đều bằng phẳng.

– Ngoài ra, Phạm Huy Thông còn có một thành tựu khá riêng biệt là giọng anh hùng ca trong các bài thơ dài lấy điển tích lịch sử. Hồn thơ Phạm Huy Thông, ngay từ buổi đầu của tuổi thanh niên, đã mang tính hoành tráng, bi hùng và dữ dội. Cảm hứng thơ thường bắt nguồn từ những nhân vật có số phận khác thường trong lịch sử. Đây cũng là một nét đáng chú ý trong phong cách sáng tác của thơ Huy Thông. Kịch thơ của Huy Thông là một đóng góp lớn đối với nền nghệ thuật nước nhà. Ông đã sáng tạo nên những câu thơ giàu nhạc điệu và hình ảnh, có sức truyền cảm khá mạnh mẽ

5. Giải thưởng – vinh danh

– Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Con Moong, trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương).

– Tên ông được đặt cho một con đường vòng quanh hồ Ngọc Khánh tại Hà Nội và con đường mới đẹp nhất (có cả quảng trường) tại quận Gò Vấp TP. Hồ Chí Minh.

6. Nhận định, bình luận

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét về đoạn trích này trong tác phẩm của Huy Thông bằng những lời ca ngợi thật là nồng nhiệt: “Chưa bao giờ thi ca Việt Nam có những lời hùng tráng như trong tác phẩm của người thiếu niên hiền hành và xinh trai ấy… Hơi văn mà đến thế thực đã đến bực phi thường. Anh hùng ca của Vichto Hugo tưởng cũng chỉ thế. Giữa cái ẻo lả, cái uỷ mị của những linh hồn đương chờ sa ngã, thơ Huy Thông ồ ạt đến như một luồng gió mạnh”.