Các trang sách nghiên cứu khoa học của nhà bác học Phan Huy Chú cho thấy được sự uyên bác, quan điểm sâu sắc, cũng như tài năng tìm hiểu, chiêm nghiệm của ông. Cùng tìm hiểu thêm về nhà thơ, nhà bác học Việt Nam qua bài viết Giới thiệu tác giả Phan Huy Chú (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định) nhé!
Tiểu sử
– Phan Huy Chú (1782 – 28 tháng 5 năm 1840) tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy của nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Là quan triều nhà Nguyễn, và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam.
– Quê quán: Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây và nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội). Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh)
– Gia đình:
+ Ông nội Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng) làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh.
+ Ông ngoại là Ngô Thì Sĩ.
+ Cha là Phan Huy Ích, một nhà nho có tiếng đậu tiến sĩ đời nhà Hậu Lê và từng làm quan cho nhà Tây Sơn
+ Mẹ ông là Ngô Thị Thực, con gái của Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi ông 10 tuổi.
+ Chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực.
+ Bố vợ là tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch(tức Nguyễn Gia Phan) từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn, Vợ Nguyễn Thị Vũ.
+ Ông có 5 con trai và 1 con gái
– Học vấn: Từ nhỏ đã được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lên 6 tuổi thì được bác Ngô Thì Nhậm rèn dạy. Hai lần thi Hương (Đinh Mão 1807 và Kỷ Mão 1819) ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là “Kép Thầy”, vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Từ đó, ông thôi việc thi cử, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác.
Sự nghiệp
– Năm Tân Tỵ (1821): Vua Minh Mạng riệu ông vào kinh đô Huế, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành), và được khen thưởng.
– Năm Ất Dậu (1825): Ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện hàn lâm.
– Năm Tân Mão (1831): Lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội “lộng quyền”.
– Năm sau (Nhâm Thìn 1832): Ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.
– Trở về (Giáp Ngọ 1834): Ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.
Tác phẩm
– Lịch triều hiến chương loại chí
– Hoàng Việt dư địa chí
– Mai Phong du Tây thành dã lục
– Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
– Hoa trình tục ngâm
– Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
– Lịch đại điển yếu thông luận
– Bình Định quy trang
– Điều trần tứ sự tấu sở
– Tiến ngọc phả biểu (Biểu dâng ngọc phả)
…
Vinh danh
– Để tưởng nhớ tới công lao, đóng góp to lớn của Phan Huy Chú đối với đất nước, năm 2001 nhà thờ ông tại Thụy Khuê, Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
– Cuối năm 2007, cuộc hội thảo khoa học quốc gia về Phan Huy Chú đã được ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu – Hà Nội.
– Tên của ông được đặt cho tên của một trường Trung học phổ thông tại Hà Nội.
Phong cách sáng tác
– Các trang sách nghiên cứu khoa học của nhà bác học Phan Huy Chú cho thấy được sự uyên bác, quan điểm sâu sắc, cũng như tài năng tìm hiểu, chiêm nghiệm của ông.
– Ngòi bút của Phan Huy Chú trên thơ cũng thể hiện được cái tài dùng từ, giàu chất kỷ sự, miêu tả sắc bén tựa như một lời trần thuật lại những hình ảnh mà chúng ta thường thấy, mà đặc biệt hơn những hình ảnh bình phàm ấy lại mang đến những xúc cảm sâu sắc trong tâm hồn người làm thơ.
=> Qua đó chúng ta thấy được rằng Phan Huy Chú không chỉ là một nhà bác học có lòng yêu nước thiết tha và có một ý thức dân tộc sâu sắc mà còn là một nhà thơ giàu chảy trôi trong dòng nước nghệ thuật tài hoa. Các tác phẩm nghiên cứu thể hiện hết thảy cách suy nghĩ về toàn bộ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cũng như qua cách nhìn nhận, đánh giá từng vấn đề, từng sự kiện lịch sử mà ông đã chăm chút nghiên cứu.
Nhận định, đánh giá
– Một nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam của Liên Xô, G.P. Mu-ra-sê-va đã đánh giá: “Lịch triều hiến chương loại chí là một bộ sách xứng đáng được gọi là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống Việt Nam. Công trình này thực tế không có công trình nào sánh nổi về bề rộng của phạm vi các vấn đề trong khoa lịch sử sử học Việt Nam thời phong kiến”(Tiếng Nga, 1973).