Thế Lữ là một nghệ sĩ đa tài, Thế Lữ hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, từ thơ, văn xuôi nghệ thuật cho đến báo chí, phê bình, dịch thuật và sân khấu. Cùng nhau tìm hiểu về tác giả với bài viết Giới thiệu tác giả Thế lữ (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác) nhé!
Tiểu sử
– Thế Lữ ( Năm sinh 10 tháng 6 năm 1907 – năm mất 3 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ), ông là một cố nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch.
– Quê quán: tại ấp Thái Hà, Hà Nội.
– Vào những năm 1930 Thế Lữ nổi danh trên văn đàn với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu của ông (1934).
– Vào năm 1934 trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập, ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời ông cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay.
Sự nghiệp
– Lớn lên ông dùng lại tên Nguyễn Thứ Lễ, khi viết văn nói lái lại là Nguyễn Thế Lữ, sau ông rút gọn thành Thế Lữ. Bút danh Thế Lữ của ông, mang nghĩa “người khách đi qua trần thế” lại phù hợp với quan niệm sống của ông khi đó. Ông còn có tên khác là Nguyễn Khắc Thảo, nhưng sau cũng bỏ đi vì bị trùng tên. Khi viết báo, đôi khi ông ký bút danh hài hước Lê Ta, xuất phát từ tên Lễ biến thành “Lê Ngã”, “ta” cũng tức là “ngã”.
– Thế Lữ học chữ Nho khi ông lên 8 tuổi, học chữ Quốc ngữ khi lên 10. Sau khi anh trai ông mất mới quay trở về Hải Phòng ở với mẹ.
– Ông ốm một năm sau khi ông thi đỗ Sơ học (cepfi) vào năm 1924 . Khi đó ông mới 17 tuổi, Thế Lữ đã lập gia đình với Nguyễn Thị Khương, người vợ hơn ông 2 tuổi.
– Ông vào học Cao đẳng Tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, học được 3 năm thì bỏ vào năm 1925
– Ông lên Hà Nội, thi đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học cũng chỉ một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư và giám hiệu của trường năm 1929.
– Thế Lữ qua đời do tuổi già vào ngày 3 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã hưởng thọ 81 tuổi.
Tác phẩm
Các tác phẩm của Thế Lữ:
– Thơ: Mấy vần thơ (1935), 47 bài thơ; Mấy vần thơ, tập mới (1941); Nhớ rừng(1934) (in trọng tập mấy vần thơ).
– Kịch: Dương Quý Phi (1942), gồm hai vở: Trầm hương đình, Mã Ngôi Pha; Người mù (1946); Cụ đạo sư ông (1946); Đoàn biệt động (1947); Đề Thám (1948); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952).
– Truyện: Vàng và máu (1934); Bên đường thiên lôi (1936); Lê Phong phóng viên (1937)
Mai Hương và Lê Phong (1937); Đòn hẹn (1937); Gói thuốc lá (1940); Gió trăng ngàn (1941); Trại Bồ Tùng Linh (1941); Thoa (truyện ngắn, 1942); Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953); Tay đại bợm (truyện ngắn, 1953).
Giải thưởng, vinh danh
– Sau khi qua đời, Thế Lữ tiếp tục được ghi nhận như một nghệ sĩ tiên phong, đặc biệt có công lớn trong việc mở đầu phong trào Thơ mới và là “người đầu tiên đưa hoạt động nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta trở thành chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở thành một nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh”.
– Ông đã được dựng tượng đặt ở chính giữa Nhà truyền thống của Nhà hát Kịch Việt Nam, có tiền thân là Đoàn Kịch nói Trung ương do ông sáng lập.
– Thế Lữ được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật trong lĩnh vực sân khấu vào năm 2000 cho hai tác phẩm Cụ đạo, sự ông và Đề Thám, hai vở kịch được ông sáng tác và biểu diễn trong những năm kháng chiến.
– Thế Lữ đã được đặt tên cho một số đường phố ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phong cách sáng tác
Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ, thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật. Ông đã thử nghiệm nhiều thế thơ khác nhau (trừ thơ Đường luật), bao gồm cả lục bát, song thất lục bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ trường thiên và cả thơ phá thể. Khác với thơ cũ thường hàm súc, cô đọng, thơ ông thường đề cao tính dư thừa và diễn đạt khúc chiết, logic. Ông cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, như phép đảo ngữ, sử dụng nhiều dấu câu, liên từ…, tuy nhiên những cách tân này không góp phần làm mới nhiều đến giọng điệu hoặc thể thơ trong thơ Thế Lữ. Những thể thơ đấy Thế Lữ chưa sử dụng thuần thục, về sau được các nhà thơ mới khác khắc phục. Ở thời kỳ đầu của Thơ mới, những cách tân của Thế Lữ đã mở đường cho bút pháp của nhiều nhà thơ sau này.