Giới thiệu tác giả Trần Quốc Tuấn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác)

5/5 - (2 bình chọn)

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc tài năng, anh dũng trong lịch sử Việt Nam. Cùng nhau tìm hiểu về Hưng Đạo đại vương qua bài viết Giới thiệu tác giả Trần Quốc Tuấn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác) nhé!

Hướng dẫn đọc nhanh

Tiểu sử

– Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1228 ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, lộ Thiên Trường (phường Lộc Vượng, Nam Định) – mất ngày 3 tháng 10 năm 1300 (thọ 71 – 72 tuổi) ở Vạn Kiếp, Đại Việt (nay là Chí Linh, Hải Dương)

– Tước hiệu: Hưng Đạo đại vương, sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế.

– Gia đình: Ông nội là Trần Thái Tổ, Cha là thân vương An sinh vương (Khâm Minh đại vương) Trần Liễu. Vua Trần Thái Tông là chú ruột của ông. Có một số giả thuyết mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, mẹ nuôi là cô ruột Thụy Bà công chúa. Vợ là Nguyên Từ quốc mẫu (Thiên Thành công chúa) con gái của Trần Thái Tông. Ông và vợ có 7 người con.

Giới thiệu tác giả Trần Quốc Tuấn (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác)

Sự nghiệp

– Trong lịch sử:

+ Năm 1257: Trần Quốc Tuấn được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp.

+ Tháng 10 âm lịch năm 1283: nhà Nguyên đe dọa đánh nước ta lần 2, ông được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước.

+ Năm 1285: ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược do Thoát Hoan chỉ huy đánh chiếm nước ta.

+ Năm 1288: Quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ ba, ông vẫn được phong uốc công tiết chế, lãnh đạo binh lính chống giặc bằng các chiến thuật tài tình.

+ Tháng 4 âm lịch năm 1289:Trần Nhân Tông phong ông làm “Đại vương” .

+ Sau đó ông trở về Vạn Kiếp sinh sống đến khi mất năm 1300.

– Trong thời gian sinh sống, ông đã để lại cho đời các tác phẩm kinh điển, đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự của Việt Nam từ triều đại Trần cho đến nay.

Tác phẩm

– Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng, quen gọi là Hịch tướng sĩ).

– Binh gia diệu lý yếu lược (Tóm lược chỗ cốt yếu trong nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược)

– Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp) nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư (quyển VI) ghi lại.

Vinh danh

Nước ta đã có rất nhiều đền thờ, tôn sùng, cảm tạ công lao của Trần Hưng Đạo, có thể kể một số đền thơ như:

– Đền Trần Hưng Đạo ở làng Thụ Khê, tổng Trúc Động nay thuộc xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng có từ sau chiến thắng Bạch Đằng (1288)

– Đền thờ Trần Hưng Đạo ở xã Phú Xá, tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, nay thuộc phường Đông Hải I, quận Hải An, Hải Phòng

– Đền Kiếp Bạc, Tp.Chí Linh, Hải Dương. Đệ Nhất Linh từ

– Đền Sơn Hải, Chương Dương Độ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

– Đền Trần, xã Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình

– Đền Trần, xã Khánh Lợi, Yên Khánh, Ninh Bình

– Đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo, ở 36 đường Võ Thị Sáu, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

– Đền thờ Trần Hưng Đạo, số 124 đường Nguyễn Trãi, tp. Nha Trang, Khánh Hòa

– Đền Bắc Lãm (hay còn gọi là Đền Vẽ), làng Bắc Lãm, phường Phú Lương, quận Hà Đông, Hà Nội

– Đền Vạn Kiếp (hay còn gọi là Đền Ông Cảo), nằm ở 102 Nguyễn Du, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk

Phong cách sáng tác

Trần Quốc Tuấn được đánh giá là một vị quan đa tài, đa nghệ, vốn thông minh từ nhỏ nên khi giặc tới, ông đều có thể chỉ huy binh linh bày trận chống giặc, bảo vệ được đất nước. Đối với văn học, ông còn có bài “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng, thể hiện được tài văn chương trong người làm quan võ như ông. Nội dung của bài hịch tựa như tâm hồn của người chắp bút, phản ánh tinh thần yêu nức của dân tộc ta, khi đồng lòng chống giặc, nổi bật lên ý chí căm thù giặc, quyết chiến, quyết thắng, bảo vệ bờ cõi và hơn hết tình đoàn kết. Bài hịch được dử dụng áng văn chính luận xuất sắc, lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng, mạch lạch, kết cấu chặt chẽ. Hình ảnh đa dạng, phong phú, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa lí trí cùng với tình cảm và lời văn tựa như bản nhạc mang giai điệu kiên quyết, rắn chắc. Những điều đó đã là cho trang sách của ông mang tính thuyết phục cao, hướng đến truyền bá tình yêu đất nước thiêng liêng, cao cả. Người đọc khi đến với bài hịch của Trần Quốc Tuấn hay Hưng Đạo Vương đều cảm nhận được ý chí, tinh thần yêu nước nồng nàn và cảm động trước sự đoạn kết của ông cha.