Giới thiệu tác giả Vũ Hoàng Chương (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác, nhận định)

Bình chọn

Giới thiệu tác giả Vũ Hoàng Chương về tiểu sử, các tác phẩm chính, phong cách sáng tác, nhận định và đánh giá

1. Tiểu sử

– Sinh ngày 14 tháng 5 năm 1915 – Mất ngày 6 tháng 9 năm 1976

– Quê quán: làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng ( nay là xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên)

– Ông học tiếng Hán ở nhà khi còn nhỏ, sau này đỗ Tú tài tại trường Albert Sarraut (nay là trường Trần Phú – Hoàn Kiếm). Năm 1938, ông theo học tại Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ ngang.

2. Sự nghiệp

– Năm 1941, khi đi dạy ở Hải Phòng ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau khi trở lại Hà Nội, ông đã thành lập “Ban kịch Hà Nội” cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính.

– Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm.

– Kháng chiến toàn quốc nổ ra, ông cùng với gia đình về Thái Bình tản cư, làm nghề dạy học.

– Năm 1950, khi này quân Pháp kéo đến muốn truy bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề dạy văn này cho đến năm 1975.

– Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam ở Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở các trường trung học và Đại học Văn khoa Sài Gòn.

– Năm 1959, ông đạt giải “Văn học nghệ thuật toàn quốc” và tham dự Hội nghị thi ca quốc tế tại Bỉ

– Từ năm 1969 – tới năm 1973, Vũ Hoàng Chương giữ chức vụ Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam.

– Từ năm 1964-1967, ông liên tục tham gia những giải thưởng danh giá về văn học nghệ thuật tại nhiều quốc gia.

– Năm 1972, ông được đề cử cho giải Nobel văn học

 

3. Các tác phẩm

– Các tập thơ:

+ Thơ say (1940), 32 bài thơ

+ Mây (1943), 25 bài thơ

+ Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948)

+ Rừng phong (1954), 39 bài thơ

+ Hoa đăng (1959), 50 bài thơ

+ Tâm sự kẻ sang Tần (1961)

+ Trời một phương (1961), 26 bài thơ

+ Lửa từ bi (1963), 15 bài thơ

+ Ánh trăng đạo lí (1966), 30 bài thơ

+ Bút nở hoa đàm (1967), 51 bài thơ

+ Cành mai trắng mỏng (1968), 62 bài thơ

+ Ta đợi em từ 30 năm (1970)

+ Đời vắng em rồi say với ai (1971), 36 bài thơ

+ Ngồi quán (1971), 69 bài thơ

+ Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973), 12 bài thơ

– Kịch thơ:

+ Trương Chi (1944)

+ Vân muội (1944)

+ Hồng diệp (1944)

4. Phong cách sáng tác

– Những nét thơ của ông như bay, như phiêu theo cảm xúc của chính bản thân mình. Đọc thơ của ông ta như cảm nhận được sự say mê đến ngây ngất của một cuộc đời. Cuộc đời của ông như được thể hiện rõ nét trong thơ, cũng là những tâm tư, tình cảm của chính ông đối với những sự kiện trong cuộc đời. Sự say mê đó đã khiến giọng thơ của ông khác xa so với những nhà thơ khác, như một dấu ấn riêng biệt giữa làng thơ Việt Nam.

5. Nhận xét, đánh giá

– Trích cuốn “Thi nhân Việt Nam” :”…Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào-xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập-cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ…. cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và bi đát riêng… “