Phân tích bài thơ Ăn tết với mẹ của Vĩnh Mai

5/5 - (1 bình chọn)

Tết đến, xuân về, dòng người hối hả trở về quê để đón tết cùng gia đình. Chẳng gì hạnh phúc bằng tết đoàn viên. Cùng Tramvanhoc Phân tích bài thơ Ăn tết với mẹ của Vĩnh Mai để thấy được tình cảm của những anh bộ đội cụ Hồ với người mẹ già họ gặp trên đường trong những ngày Tết cận kề nhé.

Dàn ý Phân tích bài thơ Ăn tết với mẹ của Vĩnh Mai

1. Mở bài

– Khái quát về đề tài tình quân dân trong chiến tranh, nhấn mạnh đến tình cảm của người lính với những người mẹ Việt Nam để từ đó nói đến bài thơ “Ăn tết với mẹ”.

– Khái quát nội dung bài thơ:

+ Khắc họa thành công hình tượng người mẹ Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp.

+ Tình cảm yêu thương chân thành giữa cán bộ, chiến sĩ với người mẹ già.

2. Thân bài

2.1 Nội dung

* Khổ thơ đầu: Mở ra khung cảnh ăn tết ấm áp giữa nhân vật trữ tình và người mẹ già:

– Nhân vật trữ tình xưng “con” và gọi “mẹ” thể hiện sự mộc mạc, gần gũi, thân thương giữa những con người không cùng máu mủ.

– Câu thơ “Ngồi bên bếp lửa sáng lòa” gợi không khí sum vầy, ấm áp.

– “Ăn tết với mẹ già”, “Con nghe mẹ kể”: những cử chỉ, hành đồng gần gũi, thân thương, không có sự ngại ngùng, e dè => Ngợi nên sự quen thuộc, tình cảm chân thành như những người thân ruột thịt.

=> Khổ thơ mở ra một khung cảnh vô cùng ấm áp, người mẹ già cùng những “người con” xa lạ quây quần bên bếp lửa trò chuyện, tâm tình với nhau. Và qua những lời tâm tình chân thành ấy, phẩm chất tốt đẹp của người mẹ, tình cảm sâu sắc giữa nhân vật trữ tình và người mẹ hiện lên rõ nét trong những khổ thơ tiếp theo.

* Hai khổ thơ tiếp: Những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ già

– Giàu lòng yêu thương:

+ Thương đoàn lính Cụ Hồ phải xa gia đình, quê hương để lên đường chiến đấu vì tổ quốc, phải ăn tết ở nơi đất khách quê người: “Mẹ thương đoàn lính Cụ Hồ / Hôm nay ăn tết ở vô phương nào”.

+ Thấu hiểu, xót thương cho hoàn cảnh sống và chiến đấu khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính: họ chiến đấu không vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích chung của dân tộc. Những người lính không nhận được những “đồng lương” xứng đáng nhưng họ đã nhận được thứ còn có giá trị hơn những của cải vật chất, đó là tình cảm yêu quý, biết ơn của đồng bào: “Đồng lương chẳng có là bao/ Có không cũng ở đồng bào mà thôi

– Người mẹ mặc dù có hoàn cảnh khó khăn nhưng ở mẹ vẫn có một sự lạc quan:

Mẹ già, chợ búa xa xôi
Con ăn với mẹ lưng xôi mẹ mừng
Tết xưa bánh mật bánh chưng
Mà chưa độc lập cũng không vui gì…

+ Cuộc sống của người mẹ cũng không hơn gì những người lính trẻ: thân mẹ già yếu, tết đến cũng không có mâm cao cỗ đầy mà chỉ có “lưng xôi” đạm bạc. Nhưng vì có những người con từ phương xa đến mà mẹ vẫn cảm thấy mừng, thấy hạnh phúc. Những người con ấy khiến người mẹ già không còn cảm thấy cô đơn, trống trải nữa.

+ “Tết xưa bánh mật bánh chưng/ Mà chưa độc lập cũng không vui gì…”

=> Hai câu thơ giống như một tiếng thở dài của người mẹ. Mẹ nhớ về cái tết xưa dù đầy đủ hơn cái tết nay, có “bánh mật bánh chưng” nhưng “cũng không vui gì” bởi đất nước vẫn chưa độc lập. => Người mẹ cũng mang trong mình niềm ao ước của hàng triệu con người Việt Nam khi ấy, mong đất nước được hòa bình, độc lập, gia đình được sum vầy, được đón cái tết ấm no, đủ đầy.

– Sự chịu thương chịu khó, sự hi sinh, lòng biết ơn và tấm lòng sẻ chia của người mẹ

“Mẹ ngồi, mẹ nói, mẹ khoe
Vườn rau mẹ tốt, nương chè mẹ xanh

– “Mình đây cực khổ cũng đành
Tết ni tiết kiệm để dành sang năm
Phòng khi bộ đội về làng
Không chi thì cũng khoai lang nước chè
Anh em cực khổ nhiều bề
Có con có mẹ đi về là vui…”

+ Dù cực khổ nhưng người mẹ vẫn lạc quan, vẫn tần tảo chăm sóc cho “vườn rau tốt”, “nương chè xanh” và mẹ tự hào vì những gì mẹ làm ra được.

+ Sự hi sinh lớn lao: Mẹ chấp nhận cực khổ, tiết kiệm để dành cho những người lính vất vả khi về làng. Mẹ luôn nghĩ đến những người lính sẽ trở về sau những ngày gian khổ. Dù mẹ nghèo khó nhưng mẹ vẫn sẵn lòng chuẩn bị những gì mình có – khoai lang, nước chè – những món ăn giản dị nhưng ấm áp nghĩa tình. Đây chính là sự đùm bọc, sẻ chia mà nhân dân dành cho những người lính dũng cảm chiến đấu vì quê hương, đất nước.

+ Mẹ thấu hiểu những gian khổ của người lính. Với mẹ, niềm vui lớn nhất không nằm ở vật chất mà ở tình cảm gia đình đoàn tụ, sự ấm áp của tình người. Người mẹ cũng hi vọng tình cảm của mình cũng sẽ giúp những người lính trẻ nhiều năm xa nhà cảm thấy được an ủi phần nào, cảm thấy bớt cô đơn, buồn bã.

Phân tích bài thơ Ăn tết với mẹ của Vĩnh Mai

* Khổ thơ cuối: Tình cảm sâu đậm của nhân vật trữ tình dành cho người mẹ vừa xa lạ cũng vừa thân thương của mình

– Nhân vật trữ tình cảm nhận được tình thương yêu chân thành của người mẹ già cô đơn, nơi mẹ đón tiếp người lính rất đơn sơ nghèo nàn nhưng anh vẫn cảm thấy ấm áp vô cùng bởi người mẹ này đón tiếp anh bằng thứ tình cảm nồng nhiệt, ấm áp như bếp lửa đang “vờn nồi nước sôi”.

– Đón tết ở nơi xa xôi, cũng chẳng có mâm cơm thịnh soạn, chỉ có món xôi đơn giản nhưng người con vẫn thấy món ăn này thật ngon làm sao. Chính không khí ấm áp và tình yêu thương chân thành của người mẹ mà khiến món ăn giản dị này trở nên ngon hơn.

– Người mẹ cho người người lính cảm giác như là người mẹ ruột thịt của mình. Lời động viên của mẹ giản dị nhưng chất chưa biết bao yêu thương. Dù chẳng phải đứa con mẹ mang nặng đẻ đau nhưng mẹ vẫn dành cho người lính những lời nói, cử chỉ như với con ruột của mình. Mẹ động viên con ăn, mẹ không ăn mẹ nhìn con ăn mà hai mắt mẹ cười.

Mẹ rằng: “Con cố mà ăn
Chỉ con với mẹ để phần cho ai?”
Mẹ ngồi mẹ ngó con nhai
Mẹ nhìn con nuốt mà hai mắt cười

– Sự ngưỡng mộ và kính trọng mẹ dành cho Cụ Hồ:

“Bỗng nhiên mắt mẹ sáng ngời:
– “Tết ni Cụ đã mấy mươi tuổi rồi?”

=>Sự ngưỡng mộ của mẹ dành cho Bác Hồ được thể hiện qua câu hỏi đầy tự hào. Ánh mắt “sáng ngời” của mẹ vừa thể hiện niềm vui khi nghĩ đến vị lãnh tụ kính yêu, vừa là niềm tin lớn lao vào con đường cách mạng.

– Bốn câu thơ cuối thể hiện sâu sắc tình yêu thương, lòng biết ơn của nhân vật trữ tình “con” dành cho người mẹ:

+ Người lính trẻ lặng lẽ ngồi nghe mẹ nói bên bếp lửa ấm áp, cảm nhận rõ tình yêu thương của mẹ qua từng lời nói, ánh mắt, cử chỉ.

+ Hai câu thơ cuối là lời hứa và quyết tâm của người lính. Tình yêu thương và sự hy sinh của mẹ trở thành động lực lớn lao giúp người con vững vàng hơn trong hành trình đầy thử thách. Sự “coi thường gian lao” không phải là sự coi nhẹ hiểm nguy, mà là sự sẵn sàng đối mặt với khó khăn, với kẻ địch để mang hòa bình, độc lập về cho đất nước, cho những người mẹ như mẹ.

2.2 Nghệ thuật

– Thể thơ song thất lục bát.

– Ngôn ngữ thơ gần gũi, giống lời ăn tiếng nói đời thường nhưng vẫn giàu cảm xúc.

– Hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc.

3. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị của bài thơ.

– Khẳng định lại tài năng của tác giả.

Phân tích bài thơ Ăn tết với mẹ của Vĩnh Mai

Thơ Cách mạng Việt Nam là một nền thơ vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là những trang thơ thấm đượm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn về những người lính dũng cảm, về cuộc chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Và khi nói đến thơ ca giai đoạn này, chúng ta cũng thể bỏ qua những bài thơ giản dị nhưng đầy xúc động về tình cảm quân dân, đặc biệt là tình cảm của những người lính với những người mẹ không cùng máu mủ trên đường chiến đấu. Bài thơ “Ăn tết với mẹ” của nhà thơ Vĩnh Mai là một trong bài thơ hay viết đề chủ đề này. Với những ngôn từ giản dị, mộc mạc, Vĩnh Mai đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người mẹ Việt Nam với những phẩm chất vô cùng tốt đẹp và cũng làm nổi bật lên tình cảm chân thành, sâu nặng giữa những người chiến sĩ với những người mẹ ấy.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh ăn tết ấm áp giữa nhân vật trữ tình “con” và người mẹ già:

“Con là cán bộ phương xa đến
Ăn tết hôm nay với mẹ già
Ngồi bên bếp lửa sáng loà
Con nghe mẹ kể gần xa trầm trồ:”

Bài thơ mở ra một khung cảnh đậm chất tình thân giữa nhân vật trữ tình – người lính và người mẹ già. Cách xưng hô “con” và “mẹ” cho thấy sự gần gũi, thân thương dù họ không cùng máu mủ. Hình ảnh “bếp lửa sáng lòa” gợi lên không khí ấm cúng của gia đình. Những cử chỉ và lời nói giản dị, thân thuộc như “ăn tết với mẹ già,” “con nghe mẹ kể” càng làm nổi bật mối quan hệ chân thành, gắn bó, không chút e dè hay ngại ngùng. Người mẹ già cùng những “người con” xa lạ quây quần bên bếp lửa trò chuyện, tâm tình với nhau. Và qua những lời tâm tình chân thành ấy, phẩm chất tốt đẹp của người mẹ, tình cảm sâu sắc giữa nhân vật trữ tình và người mẹ hiện lên rõ nét trong những khổ thơ tiếp theo.

Hai khổ thơ tiếp theo là những lời tâm tình của người mẹ với nhân vật “con”, qua những lời tâm tình ấy, người mẹ hiện lên thật đẹp đẽ. Người mẹ trong bài thơ mang trái tim nhân hậu và giàu yêu thương. Mẹ cảm thương những người lính trẻ đang phải ăn tết xa nhà, nơi đất khách quê người. Không chỉ thương, mẹ còn thấu hiểu những khó khăn, thiếu thốn của người lính trong chiến tranh. Câu thơ: “Đồng lương chẳng có là bao/ Có không cũng ở đồng bào mà thôi” đã nói lên sự đồng cảm sâu sắc của mẹ với những hy sinh của người lính. Với mẹ, sự cống hiến của họ không phải để đổi lấy vật chất mà là vì sự độc lập, tự do của dân tộc:

“Mẹ thương đoàn lính Cụ Hồ
Hôm nay ăn tết ở vô phương nào
Đồng lương chẳng có là bao
Có không cũng ở đồng bào mà thôi”

Người mẹ già ấy còn có một tình thần lạc quan dù cuộc sống của mẹ đầy vất vả, thiếu thốn:

Mẹ già, chợ búa xa xôi
Con ăn với mẹ lưng xôi mẹ mừng
Tết xưa bánh mật bánh chưng
Mà chưa độc lập cũng không vui

Cuộc sống của người mẹ cũng không hơn gì những người lính trẻ: thân mẹ già yếu, tết đến cũng không có mâm cao cỗ đầy mà chỉ có “lưng xôi” đạm bạc. Nhưng vì có những người con từ phương xa đến mà mẹ vẫn cảm thấy mừng, thấy hạnh phúc. Những người con ấy khiến người mẹ già không còn cảm thấy cô đơn, trống trải nữa. Mẹ nhớ về cái tết xưa dù đầy đủ hơn cái tết nay, có “bánh mật bánh chưng” nhưng “cũng không vui gì” bởi đất nước vẫn chưa độc lập. Câu thơ như tiếng thờ dài buồn bã, người mẹ cũng mang trong mình niềm ao ước của hàng triệu con người Việt Nam khi ấy, mong đất nước được hòa bình, độc lập, gia đình được sum vầy, được đón cái tết ấm no, đủ đầy.

Hình ảnh người mẹ hiện lên với sự tần tảo, chịu thương chịu khó, luôn nghĩ đến người khác. Mẹ dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng “tiết kiệm” để dành chút gì đó cho các anh bộ đội. Những món quà giản dị như “khoai lang nước chè” không chỉ là vật chất mà còn chứa đựng tình yêu thương và lòng biết ơn sâu sắc của người mẹ dành cho những người lính đang ngày đêm chiến đấu vì quê hương.

Mẹ ngồi, mẹ nói, mẹ khoe
Vườn rau mẹ tốt, nương chè mẹ xanh
– “Mình đây cực khổ cũng đành
Tết ni tiết kiệm để dành sang năm
Phòng khi bộ đội về làng
Không chi thì cũng khoai lang nước chè
Anh em cực khổ nhiều bề
Có con có mẹ đi về là vui…”

Ở khổ thơ cuối, người lính trẻ không giấu được sự xúc động trước tình cảm mà mẹ già nơi xa lạ dành cho mình:

Lửa vờn nồi nước bừng sôi
Con nghe ngon miệng lưng xôi vợi dần
Mẹ rằng: “Con cố mà ăn
Chỉ con với mẹ để phần cho ai?”
Mẹ ngồi mẹ ngó con nhai
Mẹ nhìn con nuốt mà hai mắt cười
Bỗng nhiên mắt mẹ sáng ngời:
– “Tết ni Cụ đã mấy mươi tuổi rồi?”
Bên bếp lửa ngồi nghe mẹ kể
Con thấy lòng thấm thía tình thương
Ngày mai con bước lên đường
Mẹ ơi! Con mẹ coi thường gian lao

Nhân vật trữ tình cảm nhận được tình thương yêu chân thành của người mẹ già cô đơn, nơi mẹ đón tiếp người lính rất đơn sơ nghèo nàn nhưng anh vẫn cảm thấy ấm áp vô cùng bởi người mẹ này đón tiếp anh bằng thứ tình cảm nồng nhiệt, ấm áp như bếp lửa đang “vờn nồi nước sôi”. Đón tết ở nơi xa xôi, cũng chẳng có mâm cơm thịnh soạn, chỉ có món xôi đơn giản nhưng người con vẫn thấy món ăn này thật ngon làm sao. Chính không khí ấm áp và tình yêu thương chân thành của người mẹ mà khiến món ăn giản dị này trở nên ngon hơn. Người mẹ cho người người lính cảm giác như là người mẹ ruột thịt của mình. Lời động viên của mẹ giản dị nhưng chất chưa biết bao yêu thương. Dù chẳng phải đứa con mẹ mang nặng đẻ đau nhưng mẹ vẫn dành cho người lính những lời nói, cử chỉ như với con ruột của mình. Mẹ động viên con ăn, mẹ không ăn mẹ nhìn con ăn mà hai mắt mẹ cười. Sự ngưỡng mộ của mẹ dành cho Bác Hồ được thể hiện qua câu hỏi đầy tự hào. Ánh mắt “sáng ngời” của mẹ vừa thể hiện niềm vui khi nghĩ đến vị lãnh tụ kính yêu, vừa là niềm tin lớn lao vào con đường cách mạng.

Bốn câu thơ cuối thể hiện sâu sắc tình yêu thương, lòng biết ơn của nhân vật trữ tình “con” dành cho người mẹ. Người lính trẻ lặng lẽ ngồi nghe mẹ nói bên bếp lửa ấm áp, cảm nhận rõ tình yêu thương của mẹ qua từng lời nói, ánh mắt, cử chỉ. Cuối cùng người lính trẻ gửi lại cho mẹ lời hứa và lòng quyết tâm. Tình yêu thương và sự hy sinh của mẹ trở thành động lực lớn lao giúp người con vững vàng hơn trong hành trình đầy thử thách. Sự “coi thường gian lao” không phải là sự coi nhẹ hiểm nguy, mà là sự sẵn sàng đối mặt với khó khăn, với kẻ địch để mang hòa bình, độc lập về cho đất nước, cho những người mẹ như mẹ.

Bài thơ “Ăn tết với mẹ” được viết theo thể thơ song thất lục bát. Ngôn ngữ thơ gần gũi, giống lời ăn tiếng nói đời thường nhưng vẫn giàu cảm xúc cùng với những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc giúp nhà thơ Vĩnh Mai khắc họa thành công sự hi sinh, tâm lòng yêu thương và tinh thần lạc quan của của những người mẹ trong chiến tranh, đồng thời cũng làm nổi bật tình yêu thương, tình người trong chiến tranh.

Với tài năng và tấm lòng của mình, nhà thơ Vĩnh Mai đã viết lên một bài thơ vô cùng xúc động về tình cảm quân dân trong chiến tranh mà cụ thể là tình cảm giữa những người lính trẻ với những người mẹ mà họ gặp gỡ trên con đường chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Bài thơ “Ăn tết với mẹ” đã làm phong phú thêm cho thơ ca cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng khẳng định tên tuổi của Vĩnh Mai trong lịch sử văn học Việt Nam.

>>> Tham khảo: 

– Viết một đoạn văn khoảng 200 chữ nêu cảm nhận về bài thơ Tóc của mẹ tôi

– Phân tích bài thơ Tết quê bà của Đoàn Văn Cừ

This will close in 0 seconds