Bài thơ Đôi mắt của Lưu Trọng Lư đã thể hiện cái tôi trữ tình và phong cách thơ của Lưu Trọng Lư, đồng thời khẳng định dấu ấn của ông trong với phong trào Thơ mới. Theo dõi bài Phân tích bài thơ Đôi mắt của Lưu Trọng Lư dưới đây để thấy được điều này.
Dàn ý Phân tích bài thơ Đôi mắt của Lưu Trọng Lư
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả.
+ Lưu Trọng Lư là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
+ Thơ ông vừa có vẻ đẹp cổ điển vừa có luồng gió của thời đại mới, điều này làm nên cái tôi vừa rạo rực, tràn đầy cảm xúc vừa u buồn, cô đơn.
– Khái quát chung về tác phẩm:
+ Bài thơ “Đôi mắt” là một trong những bài thơ thể hiện được cái “tôi” của Lưu Trọng Lư.
+ Bài thơ giống như một bản hòa tấu về tình yêu, chất chứa những ý vị, màu sắc khác nhau của cuộc sống.
2. Thân bài
2.1 Nội dung
*Khổ 1: Mong ước được đắm chìm vào trong vẻ đẹp, trong tình yêu
“Có hoa nào qua mùa không héo?
Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?
Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em”
– Mở đầu bài thơ bằng hai câu hỏi tu từ:
“Có hoa nào qua mùa không héo?/ Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?”
+ Gợi cảm giác chiêm nghiệm về sự mong manh, tàn phai của vạn vật trước thời gian, những đồng thời cũng để nhân vật trữ tình bày tỏ tình cảm của mình.
+ Câu trả lời của tác giả cho câu hỏi “Hoa nào qua mùa không héo” chính là nhân vật trữ tình “em”, người con gái mà nhân vật “anh” vẫn luôn thầm thương trộm nhớ. “Hoa không héo” có lẽ còn là tình cảm mà “anh” dành cho “em”, một tình cảm bền vững, tươi đẹp không phai tàn trước thời gian.
+ “Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?” => Hỏi những là để khẳng định: Với những người đang yêu, không có tiếng nào giàu đẹp hơn tiếng yêu.
– “Mắt em là một dòng sông/ Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em”:
+ Phép so sánh, ẩn dụ “Mắt em là một dòng sông”: nhân vật trữ tình không chỉ nói về vẻ đẹp bề ngoài mà còn nói về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật “em”. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong cảm nhận của nhân vật “anh”, người con gái ấy mang vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, tâm hồn em cũng giống như một dòng sông, mênh mông, rộng lớn và bao la.
+ Nhân vật “anh” ước mình hóa thành một con thuyền nhỏ, để có thể tắm mình vào trong dòng sông ấy => Mong muốn được tự do bày tỏ tình cảm của mình dành cho người con gái và cũng muốn tình cảm của mình được đáp lại.
+ So sánh “em – anh” với “sông – thuyền” => Tạo nên ý nghĩa rất đặc sắc: mối quan hệ gần gũi, gắn bó sâu sắc.
=> Kết luận: Khổ thơ thể hiện tình yêu tha thiết mà nhân vật “anh” dành cho “em”.
* Khổ 2: Nỗi buồn trước mối tình dở dang
“Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc
Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng?
Phép gì khỏi nhớ đừng trông
Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi”.
– “Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc:
+ Đàn “nguyệt dạ”: tiếng đàn trong ánh trăng đêm: hình ảnh đẹp, thơ mộng, vừa êm dịu lại vừa gợi cảm giác buồn man mác.
+ “Hương đêm bay lạc”: gợi cảm giác miên miên, vô định.
=> Câu thơ gợi lên sự lạc lõng, cô đơn của nhân vật trữ tình, một nỗi lo lắng, bất an cho tình yêu của mình.
– “Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng”:
+ “Tiếng vạc lưng chừng”: tiếng vạc kêu lưng chừng, thảm thiết trong đêm đã tạo nên không gian buồn thương đến ám ảnh. Tiếng vạc ấy phải chăng cũng là tiếng lòng sầu bi của nhân vật trữ tình “anh”, tiếng buồn than cho chính cuộc tình “lưng chừng” của mình.
– “Phép gì khỏi nhớ đừng trông/ Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi”: Làm sao có thể làm vơi đi nỗi nhớ về em vẫn luôn trực trào trong trái tim của thi sĩ. Đôi mắt của em thật đẹp khiến cho “anh” chỉ muốn giữ cho riêng mình, để mỗi lần nhớ đến có thể đem ra ngắm nhìn, để có thể soi chiếu cho tấm lòng của thi sĩ.
– Từ ngữ: bay lạc, buồn, lưng chừng, khỏi nhớ đừng trông, vắng lòng
=> câu thơ dường như có sự trau chuốt hơn về mặt ngôn từ. Các từ ngữ cũng dần thể hiện rõ nét hơn điệu buồn trong tâm hồn của thi sĩ.
– Biện pháp tu từ:
+ Câu hỏi tu từ: “Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng?”: nhấn mạnh nỗi buồn của tác giả về ý niệm lỡ dở.
=> Kết luận: Như vậy, với sự kết hợp một cách độc đáo của các hình ảnh, từ ngữ cùng biện pháp nghệ thuật, nỗi lòng của nhân vật “anh” đã được giãi bày. Đứng giữa hiện thực của một cuộc tình dở dang, nhân vật trữ tình chỉ có thể gửi gắm những mong ước của mình vào trong trăng sáng, để quyện cùng với hương đêm bay đi, mong rằng tiếng lòng ấy sẽ được “em” nghe thấy.
2.2 Nghệ thuật
– Thể thơ thất ngôn lục bát, ngôn ngữ vừa giản dị trong sáng, vừa cổ điển.
– Câu hỏi tu từ: Xuyên suốt bài thơ, tác giả sử dụng rất nhiều câu hỏi tu từ. Vừa tăng thêm sắc thái nghệ thuật cho bài thơ, vừa nhấn mạnh thêm tình cảm và tấm lòng, cũng như chuyện tình lỡ dở mà nhân vật “anh” dành cho “em”.
– Các biện pháp tu từ như so sánh: đôi mắt em với dòng sông, điệp cấu trúc: có… không cũng góp phần không nhỏ trong việc làm nên thành công cho thi phẩm.
=> Bài thơ “Đôi mắt” đã thể hiện rất sâu sắc tình cảm của nhân vật “anh” dành cho nhân vật “em”. Đó là những lời thơ được cất lên từ trong sâu kín của tâm hồn tác giả, là những tiếng yêu rất chân thành, là những mong ước về cuộc tình dang dở, về khát vọng được tắm mình vào trong tình yêu của em đến muôn đời. “Đôi mắt” xứng đáng là một trong những bài thơ tình sâu sắc nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của Lư Trọng Lư.
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
– Đánh giá tài năng của tác giả.
Phân tích bài thơ Đôi mắt của Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân đã nhận xét về thơ của Lưu Trọng Lư rằng “thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”. Có lẽ chính vì vậy mà những trang thơ của Lưu Trọng Lư gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Thơ ông vừa có vẻ đẹp cổ điển vừa có luồng gió của thời đại mới, điều này làm nên cái tôi vừa rạo rực, tràn đầy cảm xúc vừa u buồn, cô đơn. Bài thơ “Đôi mắt” là một trong những bài thơ thể hiện được cái “tôi” ấy của Lưu Trọng Lư. Bài thơ giống như một bản hòa tấu về tình yêu, chất chứa những ý vị, màu sắc khác nhau của cuộc sống.
Mở đầu bài thơ, Lưu Trọng Lư sử dụng hai câu hỏi tu từ để gợi lên cảm giác chiêm nghiệm về sự mong manh của vạn vật trước dòng chảy của thời gian. Hai câu hỏi không chỉ là lời tự vấn mà còn như một cách để nhân vật trữ tình giãi bày tình cảm của mình:
“Có hoa nào qua mùa không héo?
Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?”
Câu trả lời của tác giả cho câu hỏi “Hoa nào qua mùa không héo” chính là nhân vật trữ tình “em”, người con gái mà nhân vật “anh” vẫn luôn thầm thương trộm nhớ. “Hoa không héo” có lẽ còn là tình cảm mà “anh” dành cho “em”, một tình cảm bền vững, tươi đẹp không phai tàn trước thời gian. Câu hỏi không phải để hỏi mà là để khẳng định. Trong tâm trí những người đang yêu, không có tiếng nào giàu đẹp hơn tiếng yêu.
Và tình yêu đó cũng chính là lý do khiến cho tác giả cảm thấy đôi mắt em đẹp như một dòng sông
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.”
Nhà thơ sử dụng phép so sánh, ẩn dụ “Mắt em là một dòng sông” một cách tinh tế và gợi ra nhiều suy tưởng. Nhân vật trữ tình “anh” không chỉ nói về vẻ đẹp bề ngoài mà còn nói về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật “em”. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong cảm nhận của nhân vật “anh”, người con gái ấy mang vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, tâm hồn em cũng giống như một dòng sông, mênh mông, rộng lớn và bao la. Nhân vật “anh” ước mình hóa thành một con thuyền nhỏ, để có thể tắm mình vào trong dòng sông ấy. Hình ảnh mắt em là dòng sông và con thuyền là anh đã tạo nên một ý nghĩa nghệ thuật rất đặc sắc. Tác giả khẳng định vẻ đẹp cũng như tâm hồn của người con gái, đồng thời nói lên ước nguyện được trở thành một phần trong cuộc đời của em, được gắn bó mãi mãi với người mình yêu của nhân vật “anh”.
Không chỉ thành công trên phương diện hình ảnh, sự giản dị trong việc lựa chọn từ ngữ như “không héo”, “có.. không”, “em”, “anh”… đã làm cho câu thơ trở nên rất gần gũi, như chính lời ăn tiếng nói hằng ngày. Bên cạnh đó, điều làm nên đặc sắc cho khổ thơ còn nằm ở các biện pháp tu từ được sử dụng. Các câu hỏi tu từ: “Có hoa nào qua mùa không héo?”, “Có tiếng nào giàu đẹp hơn không” đã góp phần khẳng định tình yêu mà nhân vật trữ tình dành cho người mình yêu. Cùng với đó là biện pháp tu từ điệp cấu trúc: “Có… không?” để nhấn mạnh và tăng thêm sắc thái biểu cảm cũng như giá trị tu từ cho khổ thơ. Như vậy, những câu thơ cho thấy tình cảm sâu đậm, chân thành của “anh” dành cho “em”.
Nếu khổ thơ thứ nhất nói lên mong ước được đắm chìm vào trong vẻ đẹp, trong tình yêu của em, thì khổ thơ thứ hai lại khiến người ta trở nên chững lại vì cái hiện thực của một cuộc tình dang dở:
“Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc
Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng?”
Câu thơ “Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc” tạo ra nên một giông gian vô cùng thơ mộng, huyền ảo nhưng cũng gợi lên một nỗi buồn man mác, sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Âm thành “tiếng vạc lưng chừng” vang lên trong đêm càng làm sâu sắc thêm nỗi buồn của nhân vật “anh”, tiếng vạc ấy thảm thiết, ám ảnh khiến không gian trở nên nặng nề, u ám. Tiếng vạc kêu ấy phải chăng cũng chính là tiếng lòng của nhân vật trữ tình “anh”, đang gào thét đau đớn vì tình yêu “lưng chừng” của mình.
Khi tình yêu đã được gói gọn trong nỗi nhớ, thì thật khó để có thể quên đi được “em”:
“Phép gì khỏi nhớ đừng trông
Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi.”
Làm sao có thể làm vơi đi nỗi nhớ về em vẫn luôn trực trào trong trái tim của thi sĩ. Đôi mắt của em thật đẹp khiến cho “anh” chỉ muốn giữ cho riêng mình, để mỗi lần nhớ đến có thể đem ra ngắm nhìn, để có thể soi chiếu cho tấm lòng của thi sĩ. Ở khổ thơ thứ hai, các câu thơ dường như có sự trau chuốt hơn về mặt ngôn từ. Các từ ngữ được dùng, như “bay lạc, “buồn”, “lưng chừng”, “khỏi nhớ đừng trông”, “vắng lòng”… cũng dần đã thể hiện rõ nét hơn điệu buồn trong tâm hồn của thi sĩ. Bên cạnh đó, sự góp mặt của câu hỏi tu từ “Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng?” cũng đã góp phần rất lớn trong việc thể hiện ý niệm về cuộc tình lỡ dỡ của nhân vật. Như vậy, với sự kết hợp một cách độc đáo của các hình ảnh, từ ngữ cùng biện pháp nghệ thuật, nỗi lòng của nhân vật “anh” đã được giãi bày. Đứng giữa hiện thực của một cuộc tình dở dang, thi sĩ chỉ đành có thể gửi gắm những mong ước của mình vào trong trăng sáng, để quyện cùng với hương đêm bay đi, mong rằng tiếng lòng ấy sẽ được em nghe thấy.
Bài thơ “Đôi mắt” được viết theo thể thơ song thất lục bát, điều này cho thấy tài năng của nhà thơ Lưu Trọng Lư khi sử dụng một thể thơ cổ điển để nói về những tình cảm rất mới mẻ. Bên cạnh đó, việc sử dụng một cách tài tình các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, đặc biệt là sử dụng các câu hỏi tu từ đã giúp nhà thơ truyền tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như tình yêu của nhân vật trữ tình “anh” dành cho nhân vật “em”. Ngoài ra, ngôn từ giản dị vừa cổ điển cũng đã góp phần trong việc làm nên cấu tứ và mạch cảm xúc cho bài thơ. Cùng với đó, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng là một trong những phương diện quan trọng làm nên sự thành công cho tác phẩm. Chính nhờ sự kết hợp tài tình của các thủ pháp nghệ thuật, mà các giá trị về mặt nội dung của thi phẩm đã được chuyển tải một cách sâu sắc.
“Đôi mắt” xứng đáng là một trong những bài thơ tình sâu sắc nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của Lư Trọng Lư. Bài thơ cũng đã thể hiện cái tôi trữ tình và phong cách thơ của Lưu Trọng Lư, đồng thời khẳng định dấu ấn của ông trong với phong trào Thơ mới.
>>> Tham khảo: Hướng dẫn phân tích đánh giá một tác phẩm thơ chi tiết