Tú Mỡ là một trong những tác giả của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Trong đó bài thơ Hư danh phê phán những kẻ tham lam dùng tiền để mua danh bán chức nhằm trục lợi. Bài viết Phân tích bài thơ Hư danh của Tú Mỡ dưới đây sẽ làm rõ nội dung bài thơ.
Dàn ý Phân tích bài thơ Hư danh của Tú Mỡ
I. Mở bài
– Giới thiệu bối cảnh văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945, đặc biệt là thơ trào phúng.
– Nêu vai trò của Tú Mỡ trong mảng thơ trào phúng.
– Khái quát bài thơ “Hư danh” – tác phẩm phê phán những kẻ tham lam dùng tiền để mua danh bán chức nhằm trục lợi.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Sự phân hóa sâu sắc về giai cấp, đạo đức trong xã hội thực dân phong kiến.
– Những điều bất công, phi lý là nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ tiến bộ.
2. Nội dung bài thơ
a) Hai câu đầu: Hình ảnh những kẻ hám danh, bất tài, dùng tiền để chạy chức chạy quyền:
– Phê phán những kẻ giàu có nhưng tham lam vô độ, dùng tiền để mua danh vọng.
– Sử dụng thành ngữ dân gian (“ruộng cả ao liền,” “mua danh bán tước”) tạo nét gần gũi, hài hước mà châm biếm sắc sảo.
b) Bốn câu thơ tiếp: Chế giễu sự lố lăng của những kẻ bất tài nhưng thích làm quan
– Phản ánh sự tương phản giữa vẻ sang trọng, quyền quý và bản chất rỗng tuếch: bài ngà, áo thụng xanh >< súng sa súng sính
– Hình ảnh “phường chèo” thể hiện sự lố bịch, rẻ mạt của những kẻ tự hào khoe khoang chức danh mua được.
– Cảnh tiệc mừng chức danh diễn ra hỗn loạn, mất đi sự trang trọng cần có: ỉ eo, eo sèo
– Phê phán thái độ “ăn trên, ngồi trốc” – sự hống hách của tầng lớp quan lại bất tài.
c) Hai câu cuối: Kết cục bi thảm của những kẻ hám danh:
– Phơi bày hậu quả của sự tham lam, giả tạo – tất cả trở thành vô nghĩa khi mất đi quyền lực.
– Lời châm biếm “mài mà ăn” thể hiện sự khinh bỉ sâu sắc.
3. Nghệ thuật trong bài thơ
– Thể thơ lục bát.
– Sử dụng chất liệu văn hóa, hình ảnh đời thường dễ hiểu mà sâu cay.
– Lối diễn đạt giàu nhịp điệu, ngòi bút châm biếm mạnh mẽ, sâu sắc.
4. Giá trị của bài thơ “Hư danh” trong bối cảnh văn học và xã hội:
– Phản ánh chân thực xã hội thực dân phong kiến với những bất công, phi lý.
– Lên án mạnh mẽ những kẻ bất tài, tham lam, góp phần thúc đẩy lý tưởng xã hội tiến bộ.
– Là một trong những tác phẩm góp phần định hình mảng thơ trào phúng Việt Nam.
III. Kết bài
– Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Hư danh”.
– Khẳng định tài năng của Tú Mỡ.
Phân tích bài thơ Hư danh của Tú Mỡ
Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, bên cạnh những thành tựu về văn xuôi của các nhà văn lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,… thì mảng thơ ca, đặc biệt là thơ trào phúng cũng giữ một vị trí khá quan trọng. Trong mảng thơ trào phúng ấy phải kể đến nhà thơ Tú Mỡ. Nhà thơ đã sử dụng tiếng cười làm vũ khí để phê phán, phủ định thực trạng xấu xa của xã hội thực dân phong kiến. Tác phẩm “Hư danh” là một trong số rất nhiều bài thơ xuất sắc của Tú Mỡ. Trong đó nhà thơ thể hiện sự châm biếm của mình với những kẻ bất tài, hám tiền và địa vị, đồng thời làm nổi bật lên sự tương phản giữa cái rỗng tuếch bên trong và cái mẽ bề ngoài cứ phô trương ra giữa cuộc đời của lớp người này.
Do ảnh hưởng khiếu trào phúng của cha, ngay từ nhỏ, Tú Mỡ đã bộc lộ năng khiếu quan sát và châm biếm đối với hiện thực xung quanh. Nhà thơ yêu thích thơ ca dân gian, say mê thơ Tản Đà và những nhà nho trào phúng đầu thế kỷ. Bên cạnh đó Tú Mỡ còn cảm thụ, học tập nhiều điều hay trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương và một số nhà thơ nước ngoài như Moliere, Voltaire, La Bruyere,…Mặt khác, thời đại xã hội ông sinh ra và lớn lên cũng chứa đựng rất nhiều chuyện bất công, phi lý, đáng khôi hài. Nhiều cảnh ngang trái như vậy đã tác động rất lớn đến những nhà thơ, nhà văn tiến bộ và có tâm huyết lúc bây giờ, trong số hàng ngũ đông đảo đó có nhà thơ Tú Mỡ. Và ông đã dùng những trang thơ của mình để phơi bày sự xấu xa, lên án, phê phán những kẻ vô lại trong xã hội lúc bấy giờ.
Xã hội thời Tú Mỡ sống có sự phân hóa sâu sắc về giai cấp, đời sống và đạo đức. Nếu ở thời Tú Xương, Nguyễn Khuyến,… cái xấu xa của xã hội thực dân phong kiến mới chỉ xuất hiện thấp thoáng thì đến thời Tú Mỡ, tất cả đã phô bày ra với đủ các dáng vẻ mà bài thơ “Hư danh” đã thể hiện một trong vô vàn dáng vẻ đáng chê cười ấy. Đó là hình ảnh những trọc phú bất tài, hám tiền và địa vị, dùng tiền để mua danh, chạy tước:
Bác kia ruộng cả, ao liền
Lắm bạc, nhiều tiền, chạy tước, mua danh.
Như đã nói đến ở phần trên, Tú Mỡ vô cùng yêu thích thơ ca dân gian nên sẽ không khó để thấy những chất liệu dân gian xuất hiện trong thơ ông. Những thành ngữ như “ruộng cả ao liền”, “mua danh bán tước” đã được tác giả vận dụng để châm biếm những kẻ giàu có, đất đai, ruộng vườn, có nhiều ao cá liền bờ nhưng lòng tham không đấy, dùng tiền để mua địa vị, danh vọng để tiếp tục kiếm chác lợi lộc.
Tiếp đó nhà thơ chế giễu cái mã bề ngoài hào nhoáng, bóng bẩy, giả tạo của những kẻ tham lam, thích khoe mẽ cái chức danh mua bằng tiền chứ thực chất bên trong là sự rỗng tuếch về văn hóa, học vấn:
Bài ngà với áo thụng xanh
Súng sa súng sính như anh phường chèo
Về làng khao vọng ỉ eo
Ăn trên, ngồi trốc, eo sèo thịt sôi
Nhà thơ Tú Mỡ đã làm nổi bật sự trơ trẽn của bọn quan lại bất tài nhưng hay tỏ vẻ bằng cách đặt những hình ảnh thể hiện cho sự quyền quý: bài ngà (thẻ nhỏ bằng ngà, quan lại dùng đeo trước ngực, ở trên có ghi chức tước, phẩm hàm), áo thụng xanh bên cạnh hành động phô trương lố bịch “súng sa súng sính”. Một người có chức danh đáng lẽ ra phải hành động đúng mực cho xứng với chức danh ấy nhưng ở đây hình ảnh quyền quý, nghiêm trang của các chức danh đã bị làm xấu đi bởi những kẻ bất tài vô dụng nhưng tham lam, hám danh, hám tiền. Trong mắt nhà thơ, bọn người này không khác gì một “phường chèo” đang mua vui cho khán giả. Sự tương phản giữa cái rỗng tuếch bên trong và cái mẽ bên ngoài tiếp tục được phơi bày khi những vị “tiến sĩ giấy” này tổ chức tiệc tùng linh đình để ăn mừng cho việc “chạy tước, mua danh” thành công. Một buổi tiệc vô cùng hỗn loạn, lộn xộn với đủ tiếng kì kèo, cãi vã, khó chịu, bức xúc,… như một chốn buôn bán chứ không phải là nơi vinh danh người tài. Nhà thơ một lần nữa châm biếm những kẻ trọc phú này qua cụm từ “ăn trên, ngồi trốc” – cụm từ thường được dùng để chỉ những người có địa vị cao trong xă hội vói hàm ý không kính trọng.
Cuối bài thơ, nhà thơ Tú Mỡ đã vạch rõ hậu quả bi thảm của lối sống tham lam, hám danh hám tài. Những kẻ vô lại, làm quan để trục lợi, để bóc lột nhân dân thì sớm muộn cũng nhận cái kết cay đắng. Khi “cơ nghiệp đi đời”, tất cả những thứ danh vọng như “thẻ ngà, giấy sắc” đều trở nên vô nghĩa. Từ “mài mà ăn” là một cách châm biếm sâu cay, chỉ rõ sự phù phiếm, hư ảo của danh vọng giả tạo:
Bây giờ cơ nghiệp đi đời
Thẻ ngà, giấy sắc đem mài mà ăn
Như vậy ngòi bút châm biếm của Tú Mỡ đã tạo ra những tiếng cười mạnh mẽ, sâu sắc, có phần mỉa mai chua chát. Giống như nhiều bài thơ trào phúng khác của nhà thơ, nét chủ đạo xuyên suốt trong bài thơ “Hư danh” là tình chất châm biếm đạt tới một nghệ thuật sắc sảo, nhạy bén và tinh tế, đạt tơi một mức độ phê phán gay gắt. Châm biếm là một thủ pháp nghệ thuật gây tiếng cười nhằm phê phán, tố cáo quyết liệt tất cả những gì không phù hợp với lý tưởng chân chính của con người, của dân tộc, của thời đại. Châm biếm đả kích để phủ nhận hoàn toàn đối tượng và vận dụng lý tưởng tiến bộ để đối lập với nó. Và nhà thơ Tú Mỡ đã rất thành công khi làm điều đó. Tú Mỡ đã lột trần được sự giả tạo, lố bịch của những kẻ bất tài nhưng lại dùng tiền mua danh vọng và tiếp tục trục lợi, những kẻ có lòng tham không đáy làm nhân dân khổ cực, đất nước đi xuống.
Bài thơ “Hư danh” cùng những bài thơ khác của nhà thơ Tú Mỡ đã góp phần cụ thể cho bức tranh sinh động của xã hội Việt Nam những năm 1930 – 1945. Bằng ngòi bút châm biếm, trào phúng của mình, nhà thơ đã vạch mặt chỉ tên và lên án những cái xấu xa, bỉ ổi, rởm đời trong xã hội thực dân phong kiến. Đứng về phía người dân lao động, đại diện cho lý tưởng xã hội tiến bộ, Tú Mỡ đã đả kích mạnh mẽ bọn quan lại, bọn thực dân, lên án những hủ tục, tập quán lạc hậu, tiêu cực. Tú Mỡ đã phần nào giúp người đọc thấy rõ bản chất xấu xa của xã hội thực dân – phong kiến.