Thơ trào phúng của Tú Xương vừa là tiếng nói chỉ trích, phê phán những thói hư tật xấu, hiện thực xã hội bất công, vừa thể hiện lòng yêu nước và tình cảm sâu sắc với nhân dân. Cùng Phân tích bài thơ Than đạo học của Tú Xương để làm rõ điều này
Dàn ý Phân tích bài thơ Than đạo học của Tú Xương
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả:
+ Nhà thơ quan trọng của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
+ Phong cách sáng tác của Tú Xương có sự kết hợp giữa tính hiện thực và giọng thơ trào phúng, chua cay
– Giới thiệu bài thơ:
+ Bài thơ “Than đạo học” thể hiện tiếng than của tác giả trước sự xuống cấp của nền giáo dục Nho học.
+ Qua đó, bài thơ cũng bày tỏ sự tiếc nuối và thất vọng trước sự phai tàn của những giá trị văn hóa truyền thống.
II. Thân bài
1. Nội dung
1.1 Hai câu đề: Thực trạng suy thoái của Nho học được khái quát qua hai câu đề:
“Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học, chín người thôi
– “Đạo học” chỉ Nho học.
– Giọng thơ: chán chường thể hiện tiếc nuối trước cảnh người người quay lưng với Nho giáo.
1.2 Hai câu thực: Bức tranh hiện thực về sự ảm đạm, sa sút của Nho học
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi
– Cảnh chợ sách ế ẩm: “Cô hàng bán sách lim dim ngủ” tượng trưng cho sự nguội lạnh của Nho học.
– “Tư lương” là thầy do các gia chủ mời về dạy chữ thánh hiền cho con cái mình. Thầy còn nhấp nhổm thì trò sao mà yên tâm học hành được. Câu thơ ám chỉ tâm thế học học khoa cử theo lối cực học đã dần mai một.
1.3 Hai câu luận: Phê phán tinh thần của giới trí thức:
“Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi”
– “Sĩ khí rụt rè” phản ánh sự yếu đuối, hèn nhát của tầng lớp trí thức, mất đi khí phách và lý tưởng học vấn.
– “Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi” phê phán lối học chạy theo lợi ích vật chất, coi thường giá trị thực sự của tri thức và văn chương.
1.4 Hai câu kết:
– Giọng điệu tự trào pha châm biếm: tác giả khéo léo phủ nhận ý định châm chọc nhưng thực chất vẫn phê phán xã hội.
– Nhắc đến “ông tiên, thứ chỉ” (chức sắc của Nho giáo) nhằm mỉa mai sự suy đồi của tầng lớp trí thức trong xã hội.
2. Nghệ thuật
– Thể thơ thất ngôn bát cú.
– Nâng ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ nghệ thuật với tất cả sức diễn tả, tính hàm ngôn và vẻ đẹp thẩm mỹ của nó. Thể thơ luật Đường được ông thỏa sức sáng tạo qua từ ngữ thông dụng nôm na, nhưng thâm thúy và vẫn giữ nghiêm niêm luật của thể loại.
III. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm:
+ “Than đạo học” là bức tranh hiện thực sinh động về sự suy tàn của nền Nho học cuối thế kỷ XIX.
+ Qua bài thơ, Tú Xương không chỉ phê phán mà còn thể hiện nỗi lòng tiếc nuối cho một giá trị văn hóa từng được coi trọng.
– Khẳng định tài năng của tác giả:
Phân tích bài thơ Than đạo học của Tú Xương
Tú Xương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và cũng là một trong những nhà thơ quan trọng của thơ trào phúng giai đoạn này. Với ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu cùng với giọng thơ châm biếm và mỉa mai sắc bén, thơ trào phúng của Tú Xương vừa là tiếng nói chỉ trích, phê phán những thói hư tật xấu, hiện thực xã hội bất công, vừa thể hiện lòng yêu nước và tình cảm sâu sắc với nhân dân. Bài thơ “Than đạo học” là một bài thơ hay của Tú Xương, bài thơ châm biếm và phê phán tình trạng giáo dục lúc bấy giờ, tiếng than thở vì một nền giáo dục đã từng được coi là cao quý đang dần xuống cấp đó cũng là sự nuối tiếc, thất vọng vì những giá trị tốt đẹp của nền văn chương xưa đang dần bị xói mòn.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ khái quát về thực trạng “đạo học” lúc bấy giờ:
Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học, chín người thôi
“Đạo học” mà Tú Xương nhắc đến ở đây là Nho học. Cuộc đời ngắn ngủi của Tú Xương nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Khi ông chưa đời, sáu tỉnh Nam kỳ đã mất vào tay pháp. Năm ông ba tuổi, Bắc kỳ (trong đó có Nam Định – quê nhà của ông) bị tấn công lần thứ nhất, đến khi ông mười hai tuổi, ông chứng kiến Bắc Kỳ và Nam Định bị Pháp tấn công lần thứ hai và rơi vào tay Pháp. Năm Tú Xương mười bốn tuổi, triều đình Huế kí thỏa ước dân nước ta cho giặc (1884), thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. Năm 1897 Pháp đặt nền móng cai trị, du nhập và thiết lập chủ nghĩa tư bản-thực dân ở một nước phong kiến đề cao đạo đức Nho giáo, đã làm đảo lộn trật tự xã hội, đời sống tinh thần của nhân dân và từ đó nền văn học Nho giáo cũng dần phai tàn. Từ năm 1900 thực dân Pháp bắt sửa chương trình thi cử, bớt chữ Hán, tăng chữ quốc ngữ.
Tú Xương là một nhà nho tài giỏi nhưng sinh nhầm thời, tài năng của ông không được trọng dụng và con đường thi cử của ông đầy chông gai khi Nho học suy tàn và mọi người dần chuyển hướng sang Tây học. Thời hoàng kim của Nho học đã qua, và giờ đây Nho học dường như đã không còn cần thiết, đã mất đi giá trị. Chính vì vậy mà lúc này, Nho học mất đi sức hút của nó, không ai kiên trì dùi mài kinh sử để tham gia các kỳ thi, để đỗ đạt và làm quan nữa. Những kì thi Hương, thi Hội cũng đã chẳng còn thì việc học chữ Hán, học Tứ thư Ngũ kinh liệu có còn ý nghĩ, có còn quan trọng khi đất nước đã mất và văn minh phương Tây và nền giáo dục thực dân đang chiếm ưu thế. Tú Xương chứng kiến cảnh truyền thống học hành khoa bảng, vốn là niềm tự hào và mục tiêu của người xưa, trở nên rệu rã, mất giá trị.
Hai câu đề với giọng điệu chán chường, thể hiện sự tiếc nuối và bất mãn trước cảnh suy thoái của đạo học. Cụm từ “đã chán rồi” như một lời thở dài ngán ngẩm. Nền giáo dục từng được coi trọng giờ đây không còn hấp dẫn, không còn là con đường mà ai cùng dốc sức theo đuổi như trước kia. Việc “mười người đi học, chín người thôi” là để nhấn mạnh sự sa sút nghiêm trọng: không còn ai mặn mà với Nho học.
Hai câu thực mô tả chi tiết hơn về sự suy tàn của Nho học:
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi
Chính vì không còn ai mặn mà với Nho học nên sách về Nho giáo cũng trở thành thứ hàng hóa ế ẩm, không ai mua. “Cô hàng bán sách lim dim ngủ” diễn tả đúng cái không khí ảm đạm, chán chường, thiếu sức sống của Nho học. Tiếp đó là hình ảnh “thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi” cũng tái hiện lại thực trạng Nho giáo thời ấy. “Tư lương” là thầy do các gia chủ mời về dạy chữ thánh hiền cho con cái mình. Thầy còn nhấp nhổm thì trò sao mà yên tâm học hành được. Câu thơ ám chỉ tâm thế học học khoa cử theo lối cực học đã dần mai một.
Tiếp đó, nhà thơ Tú Xương tiếp tục nói về tinh thần học tập sa sút của những người theo học Nho giáo bằng ngôn từ đầy sự đả kích:
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Tế Xương chỉ trích lòng khí khái của kẻ sĩ, của nhà nho trong thời buổi Nho học bị mất ảnh hưởng một cách trầm trọng. Không còn vẻ nho nhã, nghiêm trang của Nho giáo, chí lớn trong học vấn nữa mà thay vào đó là sự nơm nớp sợ hãi, nhớn nhác hốt hoảng mà được tác giả ví như gà lúc bị cáo đến bắt. Ngoài ra câu thơ “văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi” cũng giống như một lời châm biếm cay đắng. Người học không còn học để lấy tri thức hay vì lý tưởng cao đẹp, mà chỉ vì những lợi ích vật chất tầm thường, “đấm ăn xôi” lấy ý từ câu thành ngữ “cố đấm ăn xôi” thường mang nghĩa tiêu cực chỉ những con người cố nhẫn nhục để được lợi. Văn chương thì đâu phải thứ có thể “cố đấm ăn xôi” được, văn chương không thể “liều lĩnh” mà học vì như vậy sẽ làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn chương.
Cuối cùng kết thúc bài thơ là giọng điệu châm biếm nhưng đầy chua chát:
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ?
Thề có ông tiên, thứ chỉ tôi!
“Làng tôi” là làng Nho, Tú Xương nhắc đến những “ông tiên, thứ chỉ” (chức sắc của các vị các khoa bảng ở địa phương, những người đứng đầu ngôi thứ trong làng thời phong kiến, thường được cử làm chủ các cuộc tế lễ, hương ẩm) với giọng điệu châm biếm để phê phán sự xuống cấp của đạo học trong toàn xã hội. Ông lên án những con người đã làm xấu đi hình ảnh cao quý của Nho giáo và đồng thời cũng là sự nuối tiếc của Tú Xương cho một nền văn hóa, văn học lâu đời đang dần biến mất.
Thơ trào phúng của Tú Xương với giọng điệu sắc sảo, sâu cay, quyết liệt luôn đem lại cái bất ngờ thú vị, tiếng cười trong thơ ông sắc bén, xé toang cái hình thức bề ngoài của đối tượng, khiến chúng bị phơi bày nguyên hình. Nhà thơ khái quát được tính chất của xã hội phong kiến suy tàn bị thực dân hóa áp đảo, đang chà đạp lên những phạm trù đạo đức thiêng liêng của một thời quá vãng. Và ở bài thơ “Than đạo học” là sự mai một của một nền giáo dục đã thống trị đất nước nhiều thế kỷ, những giá trị tốt của nền giáo dục ấy đã bị chà đạp và lãng quên.
Tú Xương sáng tác khá nhiều thơ, tuyệt đại bộ phận là thơ Nôm viết bằng các thể thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục bát và song thất lục bát. Bài thơ “Than đạo học” là một bài thơ thất ngôn bát cú, và cũng giống như những bài thơ khác của Tú Xương, bài thơ đã nâng ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ nghệ thuật với tất cả sức diễn tả, tính hàm ngôn và vẻ đẹp thẩm mỹ của nó. Thể thơ luật Đường được ông thỏa sức sáng tạo qua từ ngữ thông dụng nôm na, nhưng thâm thúy và vẫn giữ nghiêm niêm luật của thể loại.
Là một nhà nho, sống giữa hoàn cảnh suy tàn của Nho học và mọi người đang dần chuyển hướng sang Tây học, con đường sự nghiệp của ông trắc trở muôn phần, có lẽ cũng vì thế mà ông đã để lại một kho tàng thơ đậm chất “Tú Xương” – nững nét cười trào phúng, những vần thơ mang tính hiện thực sâu sắc, đôi khi chúng thật nhẹ nhàng mà dí dỏm, cũng có khi mỉa mai một cách sâu cay. Và những điều đó đã được thể hiện trong “Than đạo học” của ông, bài thơ cũng có sức sống bền bỉ vô cùng bởi khi đặt nó trong bối cảnh hiện tại chúng ta phải thừa nhận rằng những gì Tú Xương viết về thời đại của ông cũng có thể đem ra phê phán “đạo học” ngày nay.