Bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ đã đem đến cho người đọc một dư vị ngọt ngào, thơ mộng khó quên với hình ảnh quê hương bình dị, thân thương. Dưới đây Tramvanhoc mang đến bài Phân tích bài Tiếng chim tu hú của nữ sĩ Anh Thơ giúp các bạn có cái nhìn sâu sắc hơn về tác phẩm.
Phân tích bài Tiếng chim tu hú của nữ sĩ Anh Thơ – Mẫu 1
Những bài thơ về quê hương, đất nước luôn có sức sống mãnh liệt và được đông đảo độc giả đón đợi. Áng thơ như chở mỗi người trả lại tuổi thơ, nơi được ôm ấp trong tình yêu gia đình, bạn bè, nơi được tự do trải nghiệm, vô lo vô nghĩ. “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ là một tác phẩm như thế. Bài thơ này được in lần đầu trong tập thơ “Những cánh chim câu” năm 1960. Trải qua hơn sáu thập kỉ, bài thơ vẫn xuất hiện nhiều lần trong các tuyển tập thơ khác nhau, chứng tỏ sức sống và vẻ đẹp bền lâu của nó. Bài thơ như một dư vị ngọt mát, tưới mát tâm hồn người.
Mở đầu bài thơ là sự nhớ thương quê hương, nhớ một không gian dài rộng với những sự vật quen thuộc: hoa gạo, con sông, hoa cỏ, triền đê:
Nắng hè đỏ hoa gạo
Nước sông Thương trôi nhanh
Trên đường quê rảo bước
Gió nam giỡn lá cành.
Bỗng tiếng chim tu hú
Đưa từ vườn vải xa
Quả bắt đầu chín lự
Ngọt như nỗi nhớ nhà.
Bức tranh quê hương được tái hiện lại một cách trọn vẹn từ hình ảnh của một làng quê Việt Nam khác. Chúng đều là những hình ảnh rất đỗi thân thương của mỗi xóm làng. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà thường được gắn với những nỗi buồn day dứt, những sự tiếc nhớ. Nhưng trong thơ của Anh Thơ, chúng ta thấy hiện lên một nỗi nhớ rất mát lành, là sự chủ động rời khỏi quê hương để đóng góp vào cuộc chiến tranh Vệ quốc, một phẩm chất rất người lính. Tiếng chim tu hú vang vọng lại khiến cho người ta liên tưởng đến mùa hè, mùa của những sắc màu rực rỡ của cây trái. Đó cũng là nỗi khắc khoải khôn nguôi của những người con khi xa nhà:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Những cảnh vật quen thuộc lại kéo con người ta về với những kỉ niệm quen thuộc bên người thân, bên cha mẹ, ông bà. Bức mành thời gian phủ dầy trên dáng vóc người cha, từ mái tóc, đến khi cần gậy để bước lên đồi. Nơi ấy có người con gái má hồng đang phơi phới tuổi xuân thì, còn bao ước mơ, khát vọng về hạnh phúc lứa đôi:
Cha già thêm tóc bạc
Chống gậy bước lên đồi
Thương một mùa vải đỏ
Má hồng con đang tươi.
Có chàng qua dạm ngõ
Bỗng khói lửa ngút trời
Con đi đêm súng nổ
Vải rụng bến sông trôi…
Người con gái ấy hôm qua còn mong ngóng được dạm ngõ, được sống trong niềm hạnh phúc của tình yêu tuổi trẻ. Vậy mà sau một đêm, vì đất nước mà phải từ bỏ niềm hạnh phúc riêng của mình, để “vải rụng bến sông trôi”. Ta nhìn thấy hình ảnh những con người phải hy sinh tuổi trẻ, sức khỏe, thậm chí cả cuộc sống để bảo vệ hòa bình cho dân tộc. Những con người ấy như ánh sao sáng lòa, gây dựng hạnh phúc cho thế hệ mai sau. Câu hát “Vì đất nước ta ra đi xây đời hạnh phúc cho mai sau thỏa lòng mong ước của Bác Hồ đêm ngày hằng mong” vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Đây cũng là lời nhắc nhở tuổi trẻ cần phấn đấu, trau dồi để phát triển đất nước thêm giàu mạnh, xứng đáng với công lao những người đi trước.
Tiếng tu hú lại vang vọng suốt chặng đường hành quân, trải dài trong những ngày hè. Nó như một thước phim quay chậm và nhắc nhớ người ta về một thời trẻ dại. thời thơ ấu đáng nhớ, như lời khắc khoải đợi mong của cha già gửi lời tới đứa con gái của mình. Chiến tranh đã chiếm đoạt hạnh phúc lứa đôi, chiếm đoạt mười năm tuổi trẻ của người con gái đang tuổi xuân thì:
Rồi tiếng chim tu hú
Vang suốt những mùa hè
Con đi dài thương nhớ
Mười năm chửa về quê.
Tu hú ơi tu hú
Kêu hoài chi vườn xanh?
Ta còn đi đi nữa
Như dòng sông trôi nhanh
Dù cuộc sống kham khổ, thiếu thốn, nhưng tác giả lại có niềm tin lạc quan vào cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước. Rồi một mai cô gái ấy sẽ được gặp lại cha mình, sẽ được trở lại quê hương yêu dấu. Những hy sinh của thế hệ cô là sự cố gắng bù đắp, đổi lấy những “mùa vải chín” bên sông của biết bao người em gái khác. Bài thơ 5 chữ đột ngột chuyển mình thành câu thơ 7 chữ, như nới rộng không gian, nối dài nỗi nhớ, tình yêu và hy vọng.
Nhắn với chim tu hú
Cha già vui đợi mong
Mười năm trong khói lửa
Má con dù nhạt hồng
Nhưng bao nhiêu em gái
Đẹp lên mùa vải chín ven sông!
Tiếng chim tu hú xuất hiện trong đoạn thơ cuối không mang sự bi lụy, buồn mang mác như những bài thơ cùng thời. Nó thể hiện niềm vui, sự tin tưởng và lạc quan vào kháng chiến, vào đường lối sáng suốt của Đảng và Bác Hồ. Những giọt thơ tạo thành dòng suối mát lành, tưới tắm những tâm hồn bạn đọc suốt nhiều thập kỷ.
Với lời thơ mộc mạc, ngôn từ giản dị, kết hợp cùng sự thay đổi linh hoạt trong nhịp điệu thơ, tác giả đã vẽ nên trong tưởng tượng của mình bức tranh thiên nhiên làng quê tràn ngập kỉ niệm. Anh Thơ đã dệt nên sợi nhớ, sợi thương, sự khát khao trở về với miền đất nuôi mình khôn lớn, chứa đựng những khắc khoải, nỗi buồn vì phải tạm xa gia đình. Nhưng bên cạnh đó, người đọc cũng cảm nhận được sự vui vẻ, lạc quan về tương lai Cách mạng của người lính.
Phân tích bài Tiếng chim tu hú của nữ sĩ Anh Thơ – Mẫu 2
Bài thơ nổi tiếng “Tiếng chim tu hú” được in lần đầu trong tập thơ “Những cánh chim câu” (1960). Từ đó đến nay, bài thơ xuất hiện nhiều lần trong các tuyển tập thơ khác nhau, chứng tỏ sức sống và vẻ đẹp bền lâu của nó.
Sở trường của Anh Thơ là thể thơ 8 chữ (như hầu hết các bài thơ trong tập Bức tranh quê, xuất bản trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945) với tiết tấu chậm, nhịp nhàng và êm ả. Nhưng cuộc kháng chiến của toàn dân tộc với tốc độ nhanh, mạnh, quyết liệt đã thực sự tác động và có ảnh hưởng sâu sắc vào tâm hồn nhà thơ, bởi vậy phong cách thơ Anh Thơ đã chuyển đổi rõ rệt, điều ấy thể hiện ở tập “Những cánh chim câu”, trong đó có bài thơ “Tiếng chim tu hú” – một thi phẩm mà nhà thơ đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn một cách thật đắc địa.
Mở đầu là nỗi nhớ quê hương với không gian rộng, có dòng sông, triền đê và tiếng chim tu hú còn vang vọng trong tiềm thức: “Nắng hè đỏ hoa gạo/ Nước sông Thương trôi nhanh/ Trên đường quê rảo bước/ Gió nam giỡn lá cành/ Bỗng tiếng chim tu hú/ Đưa từ vườn vải xa/ Quả bắt đầu chín lự/ Ngọt như nỗi nhớ nhà”.
Trong văn học nghệ thuật, nỗi nhớ nhà thường gợi cảm giác buồn, cô đơn. Nhưng nỗi nhớ nhà trong bài thơ này lại “ngọt”- một sáng tạo rất mới, rất độc đáo và rất điển hình của Anh Thơ. Đó là nỗi nhớ của người có tâm thế “chủ động xa nhà”, là nỗi nhớ của người dấn thân, của người chiến sĩ.
Tiếp đến là nỗi nhớ cụ thể và không gian hẹp hơn – nhớ gia đình, nơi còn người cha tóc bạc, đang từng ngày “chống gậy bước lên đồi”, hướng ánh nhìn về vùng kháng chiến, nơi ấy có người con gái thương yêu, người con gái bé bỏng “má hồng con đang tươi”. Chiến tranh đã chiếm đoạt cuộc sống thanh bình và hạnh phúc lứa đôi. Người con gái ấy mới hôm qua còn được “Có chàng qua dạm ngõ” mà hôm nay đành chấp nhận một thực tế phũ phàng: “Con đi đêm súng nổ/ Vải rụng bến sông trôi…”.
Hình ảnh vải rụng bến sông trôi… đã gợi ra những biến động của thời cuộc, về số phận của con người, nhất là hạnh phúc của một cô gái. Cuộc dấn thân thật gian truân và vô cùng khắc nghiệt “Mười năm trong khói lửa/ Má con dù nhạt hồng” nhưng vì lý tưởng, có niềm tin vào tương lai, những câu thơ vẫn tràn đầy hy vọng khi biết sau mình sẽ còn biết bao người nối tiếp, nhà thơ bỗng thấy lòng sảng khoái một niềm tin vào tương lai: “Nhưng bao nhiêu em gái/ Đẹp lên mùa vải chín bên sông!”.
Từ đầu bài thơ đến đây đều là thơ 5 chữ, vậy mà đến câu cuối cùng, nhà thơ bỗng hạ một câu thơ 7 chữ, như sự nới rộng của không gian, của nỗi nhớ và của niềm tin, hy vọng. Tiếng chim tu hú diễn tả nỗi nhớ quê hương tha thiết nhưng không bi lụy mà tràn đầy niềm tin vào kháng chiến, vào tương lai. Vì thế, bài thơ đã đọng lại dư vị ngọt và mát trong tâm hồn bạn đọc suốt hơn nửa thế kỷ qua…