Phân tích bài thơ Bên kia Sông Đuống chi tiết
Mở bài
Hoàng Cầm là nhà thơ miền quan họ. Sông Đuống đã đi sâu vào dòng thơ ngọt ngào của ông một cách rất tự nhiên, thân thuộc, như cách ông tự hào về quê mẹ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Bên cạnh những tác phẩm chứa đựng đầy tâm tư riêng của mình, “Bên kia sông Đuống” cũng là thi phẩm để lại những lời ca, tiếng hát ngọt dịu cho đời, làm nên tên tuổi của Hoàng Cầm.
Thân bài
Tiếng gọi mở đầu bài thơ dần ẩn hiện trong tâm trí, hiện lên trong lòng độc giả những hoài niệm bồi hồi, xao xuyến của một thời tuổi trẻ. Giọng thơ như an ủi, vỗ về những tâm hồn người dân đất quan họ:
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Con sông ấy là cội nguồn của nỗi nhớ, là nguồn cảm hứng vô tận chảy dài trong thơ của Hoàng Cầm. Nhân vật trữ tình “em” ở đây như sự phân thân của nhà thơ. Đến với “em” để người ta nhớ, để thương, để thổ lộ và giãi bày những nhung nhớ. Đó là chất tình trong thơ của Hoàng Cầm. Đi cùng với nhân vật trữ tình, dòng sông Đuống lấp ló xuất hiện trong dòng hoài niệm, trôi dài theo lịch sử kháng chiến trường kì của dân tộc. Nó trôi mãi, đọng lại hình bóng quen thuộc trong lòng người, mang theo những màu sắc, dáng hình quen thuộc:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
“Trôi đi” – hai từ này giúp người đọc tưởng tượng ra trạng thái êm đềm trôi lững lờ của nước, man mác buồn. Con sông ấy không “uốn quanh xóm làng” như những câu hát xưa cũ. Nó “nghiêng nghiêng”, nhưng lại sừng sững ở đó chứng kiến trường kì kháng chiến của dân tộc, là nhân chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc. Dòng sông ấy còn in bóng thôn làng yêu dấu, cho người ta những phù sa, nuôi dưỡng cuộc sống con người nơi đó:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Nhìn dòng sông gợi lại bao hoài niệm. Đó là màu của tuổi thơ, của những tháng ngày rong ruổi được bên gia đình. Nhưng giờ, người con quê hương nhìn lại chỉ thấy “nhớ tiếc”. ,”xót xa” cho những tháng này được hạnh phúc, yên bình bên cạnh người thân. Quê hương ngày ấy giờ đã chìm trong máu lửa khói bom. Sự xót thương và tiếc nhớ về miền tuổi thơ như được tái hiện lại trước mắt độc giả.
Nếu ở 10 dòng thơ đầu tiên, “Bên kia sông Đuống” thể hiện cái nhìn tiếc nhớ, nỗi đau tê tái đến xót xa của người con xa quê, thì ở các câu thơ sau, sự tự hào về quê hương Kinh Bắc lại càng được nhân lên gấp bội, như những đợt sóng vỗ ào ạt vào bờ:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Làng quê của Hoàng Cầm hiện lên với hương thơm của lúa nếp ngào ngạt, mùi thơm từ giấy làm tranh, đó là màu sắc tươi sáng của lúa nếp mới, ngập tràn xóm làng, là màu sắc sáng tươi của những bức tranh Đông Hồ truyền thống. Tất cả những sự vật ấy làm nổi bật lên bức tranh quê hương thấm đượm sức sống, phủ đầy tình yêu quê hương tha thiết của tác giả, sáng bừng màu sắc dân tộc. Nhưng quê hương ấy còn đâu? Hình bóng quê hương giờ chỉ hiện về trong tâm tưởng, vì giờ đang chìm trong khói bom của quân xâm lược:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Từ vật chất đến tinh thần, quê hương ấy đã bị quân ngoại xâm làm cho tan nát chia lìa. Nỗi đau ấy phá nát ước mơ của người con đất Việt, dẫm đạp lên những hoài bão của trẻ thơ. Quân giặc điên cuồng cướp bóc và chống phá, quê hương thay đổi hình hài, từ ngập tràn sức sống thành chết chóc đau thương. Những tiếng chuông chùa, những hình ảnh quen thuộc của quê hương giờ chỉ còn hiện về trong tâm tưởng. Nhìn cảnh rồi nhớ người, nỗi nhớ quê hương trong quá khứ yên bình dâng lên dạt dào trong lòng tác giả:
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những hình ảnh yên bình, đầm ấm của làng quê xưa cũ ẩn hiện như thước phim quay chậm, tái hiện mờ nhạt trong kí ức của con người đang sống. Nó nối tiếp xuất hiện như nỗi ám ảnh, khôn nguôi trong lòng người con ấy. Nỗi nhớ ấy vừa thực vừa ảo, đậm hương vị dân tộc, tạo nên chất trữ tình trong thơ Hoàng Cầm. Những hình ảnh trước đó tươi sáng đẹp đẽ bao nhiêu, thì những hình ảnh sau đó lại rùng rợn, nhức nhối bấy nhiêu:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Nếu ở đoạn trên là những cô gái xinh đẹp, tình tứ, bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót.thì khi “lũ quỷ mắt xanh” kéo đến cướp bóc: “Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”. Bờ tre thì “hun hút”, trời thì “mưa lạnh” con đường thì “trơn”,… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng… Trên trời, cánh cò xao xác “bay vùn vụt”, … “về đâu…”. Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi “bước cao thấp”;… Tất cả gợi lên một không gian ám ảnh đến kinh hoàng, ngập tràn đói nghèo và đau thương.
Tuy nhiên, những nỗi đau, chà đạp mà thực dân đem tới quê hương này, sẽ luôn được khắc ghi, chỉ chờ một cơ hội để “đứng dậy sáng lòa”, bởi lẽ chúng ta không biết nguôi hờn. Rồi sẽ tới một ngày chúng ta sẽ đứng lên, đòi lại những gì đã mất, trả lại bóng hình quê hương thân thương ngày đó:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Kết bài
Với tình cảm dào dạt, yêu quê hương sâu đâm, “Bên kia sông Đuống” như khúc hát ca ngợi quê hương Bắc Ninh trong quá khứ, khắc tạc tội ác kẻ thù và là lời tuyên chiến với những kẻ phá hủy quê hương chúng ta. Lời thơ vừa tràn đầy hoài niệm, vừa ngợi ca, nhưng cũng chứa đầy sự căm phẫn những người đã cướp nước. Qua đó, ta càng thấm thía hơn việc bảo vệ và giữ gìn nền hòa bình mà ta đang có.
Phân tích bài thơ Bên kia Sông Đuống ngắn gọn
Mẫu 1
Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:
“Tôi người Quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
Nước trắng…”
Dòng sông “nước trắng” ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm “lá diêu bông” một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái “mệnh yểu”:
“Sực nhớ cha vò võ tuyết sương
Con hóa thành tia sao Thương
Cắt ngang đường sao băng”.
Nếu tính từ năm 1937 khi viết “Hận Nam Quan” đến năm 1995, tập thơ “Men Đá Vàng” xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. “Bên kia sông Đuống”, “Lá diêu bông”, “Mưa Thuận Thành”, kịch thơ “Trương Chi”,… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.
Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. “Bên kia sông Đuống” là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về “Bên kia sông Đuống”: “Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại”. Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì”.
Con sông tuổi thơ “cát trắng phẳng lì” là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay “người tình chung” từng “để thương, để nhớ để sầu cho ai…”. Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong “ngày hội non sông”: “Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. “Em” đến đúng lúc để “anh” giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.
Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm “Ngày xưa cát trắng phẳng lì” trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ, với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:
“Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”.
Hai tiếng “trôi đi…” gợi lên cái êm đềm, cái man mác “nước chảy lơ thơ…”. “Một dòng sông lấp lánh” vì cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông “làng ta” (Ca dao) mà lại “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.
Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu “xanh xanh” của bãi mía bờ dâu, màu “biêng biếc” của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương “đứng bên này sông” nhìn về “bên kia sông Đuống”, từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi “tâm hồn ta thấm đất”, nỗi nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”.
“Sao nhớ tiếc… sao xót xa…” vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm “chết đi ” từng phần cơ thể. Câu thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đã cụ thể hóa nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi “chợt nghe” tin bạn chí thân qua đời: “Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời”. Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm mới có nỗi đâu “nhớ tiếc” và “xót xa như rụng bàn tay” ấy.
Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương “Bên kia sông Đuống” là một cái nhìn đăm đắm “nhớ tiếc”, là nỗi đau tê tái “xót xa”, là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: “biêng biếc… nhớ tiếc … như rụng bàn tay”.
Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng, tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội “bên sông trở về”.
Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ “Bên kia sông Đuống” và “Ai về bên kia sông Đuống” nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.
“Bên kia sông Đuống” là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hóa, văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà. Ba tiếng “quê hương ta” vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn “anh” và “em” tự thuở nào. Nhớ “quê hương ta” là nhớ mùi “thơm nồng” của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp “nét tươi trong”, nhớ “màu dân tộc”, nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp “sáng bừng trên giấy điệp” óng ánh, mượt mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ “sáng bừng” đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu “sáng bừng” màu sắc dân tộc.
Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”. “Ngày khủng khiếp” kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. “Những cánh đồng quê chảy máu”, những đường làng “xương máu tơi bời”, … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo tới quê hương ta là: “Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu”. Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:
“Mẹ con đàn lợn âm dương,
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”.
Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của “quê hương ta” bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị “ngọn lửa hung tàn” hủy diệt! Những câu thơ ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng người đang bùng lên dữ dội.
Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: “Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta gửi tấm the đen… – Gửi về may áo cho ai…” – Vẫn chỉ là phiếm chỉ “Ai về…” “cho ai…”, gợi lên một nỗi nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là “thấp thoáng mộng bình yên”, là nỗi nhớ chùa xưa tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:
“Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”.
Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn “văng vẳng” từ “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.
Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều… Chữ “những” điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:
“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu”.
“Ai về… có nhớ” – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ lắm. Nhớ “từng khuôn mặt búp sen”, nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người cần mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:
“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén rang đen,
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,
Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu về đâu”.
Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: “Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền”. Qua đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.
Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót. “Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong” xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi “lũ quỷ mắt xanh” kéo đến cướp bóc: “Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”. Bờ tre thì “hun hút”, trời thì “mưa lạnh” con đường thì “trơn”,… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng… Trên trời, cánh cò xao xác “bay vùn vụt”, … “về đâu…”. Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi “bước cao thấp” với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:
“Có con cò trắng bay vùn vụt,
Lướt qua dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”.
Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết “chui gầm giường tránh đạn”, đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: “Ú ớ cơn mê – Thon thót giật mình”… Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ, những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:
“Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn”.
Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” với “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp”, Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: “Bây giờ tan tác về đâu… Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu… Bây giờ đi đâu về đâu…” – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.
Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi “bộ đội bên sông đã trở về”. Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh “bừng lên” sau lũy tre điêu tàn một thời “khủng khiếp”:
“Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng”.
Có biến động “Trại giặc bắt đầu run trong sương”. Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng :
“Gió đưa tiếng hát về gần,
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”.
Có niềm vui “mở hội… ” và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp :
“Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi … “.
Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu tố “kể” lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng “bao nhiêu đồn giặc tơi bời”, và mới có “chim múa hoa cười” trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng ín nhiều dễ dãi, sơ lược.
Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước “bao giờ về bên kia sông Đuống” trong ngày hội non sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ :
“Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.
Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui ngân nga mãi trong lòng người.
“Quê hương nghĩa nặng tình sâu… “, có ai đã nói như vậy ? Tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống “Trôi đi một dòng lấp lánh”, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ “Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.
Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái “cười như mùa thu tỏa nắng”… là của riêng Hoàng Cầm.
Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác “Bên kia sông Đuống”. Thơ hay mới cho ta “Sự đồng cảm nhiệm màu” ấy.
Mẫu 2
Bên kia sông Đuống in trong tập thơ cùng tên của Hoàng cầm. Một đêm tháng tư năm 1948, đang công tác văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc, tác giả nghe tin quê hương bị giặc đánh phá nên xúc động viết ra bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bằng cách trình bày khung cảnh thanh bình của quê hương sống Đuống, mảnh đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa với những nét tài hoa về hội họa dân gian, những hội hè mùa xuân đông vui, những sinh hoạt chợ búa, các nghề thủ công nổi tiếng… và tụ lại ở gánh hàng rong của mẹ già một đời tần tảo, hình ảnh những đứa em thơ… tất cả đều bị lũ giặc hung tàn tràn đến đốt phá tan tành, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn chặt với quê hương và qua đó nói lên tình yêu đất nước thiết tha, sâu đậm.
Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới nét đẹp của con sống Đuống : cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc… gợi lên hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan tác dưới gót giày quân xâm lược. Đứng bên này sống, nhìn sang quê hương bên kia sống bị giặc chiếm, cảm xúc đau đớn của nhà thơ lên đến cực điểm: Xót xa như rụng bàn tay.
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”
Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là một vùng đất mỡ màu, trù phú và có một bề dày lịch sử, văn hóa vô cùng quý báu. Nhớ tới quê hương, nhà thơ như cảm thấy hương vị đậm đà, thanh khiết của lúa nếp thơm nồng sau mùa gặt mới. Hương cốm ngọt ngào trong đêm trăng sáng Trung thu, mùi xôi nếp cái hoa vàng thơm lừng ngày giỗ, ngày Tết… để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xa quê.
Đất Kinh Bắc là đất của thơ ca, nhạc họa và những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Thánh Gióng nhổ tre quật tan tác giặc Ân. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh quân Nam Hán. Lí Thường Kiệt đuổi quân Tống ở sông cầu. Chiến dịch Xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi giết hàng vạn giặc Minh cũng diễn ra ở đấy. Bao thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đẹp đẽ cũng ra đời từ miền đất ấy.
Đặc biệt, con người Kinh Bắc tài hoa đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian nổi tiếng là tranh Đông Hồ với nội dung vui tươi, nét vẽ đậm đà, chân chất, màu sắc tươi tắn. Tranh nào tranh nấy như một lời chúc mừng năm mới tốt lành. Từ con người đến vạn vật đều vui với mùa xuân, nẩy nở, sinh sôi, tràn đầy sức sống :
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Tranh Đông Hồ đến với mọi nhà, đem niềm vui và niềm tin vào năm mới làm ăn sẽ may mắn, phát đạt. Tranh mang vẻ đẹp dân dã mà thanh tao, ý nghĩa ấm áp bao nhiêu !
Vậy mà bỗng dưng lũ giặc kia ầm ầm kéo tới, ngùn ngụt như đám cháy, hung tàn chẳng khác chi chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu. Chúng tàn phá không chừa một nơi nào:
Ruộng ta khô.
Nhà ta cháy…
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
Nào chỉ có tang thương, đau đớn về vật chất?! Chúng nó đốt phá, cướp bóc, giết chóc… nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt, nhìn thấy rõ. Còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ? Đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột (tên hai bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng) tượng trưng cho quan niệm về nguồn gốc sự sống của cha ông nay cũng bị giặc tàn phá, hủy diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa?!
Lời thơ, ý thơ là vậy và âm điệu đoạn thơ cũng là một âm điệu xót xa kéo dài: Bây giờ tan tác về đâu? Giặc kéo tới cùng với đau thương, chết chóc, kinh hoàng. Bây giờ không biết mọi cái đã tan tác về đâu ? Cả thời gian lẫn không gian đều trở nên mờ mịt, xa xôi không biết đến nơi nào, đến bao giờ, khiến nỗi xót xa không còn giới hạn. Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng kêu xé lòng vút lên giữa thinh không, chẳng có lời đáp lại.
Đoạn thơ ngắn với hai mảng đối lập nhau : quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời kết tội đanh thép quân xâm lược. Câu thơ cuối chứa chất xót xa, đau đớn và căm hận. Quân cướp nước sẽ phải trả nợ máu cho những tội ác của chúng đã gây ra trên quê hương, đất nước này.
Mẫu 3
Quê hương – hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”.
Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy “Bên kia sông Đuống” đặt làm nhan đề cho tác phẩm.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:
“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc”
Tiếng gọi “Em ơi” và cách xưng hô anh – em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ “em” gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.
Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ “cát trắng phẳng lì” trải dài, đầy phù sa. Các từ láy “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc” đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng”, có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam.
Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ “ngày xưa” khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.
Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế “nằm nghiêng nghiêng”. Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó “trôi đi” cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.
Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”
Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?
Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, … Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. “Màu dân tộc” trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.
Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”?
Từ láy “ngùn ngụt” không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh “đám cưới chuột, đàn lợn” đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam…. giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.
Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:
“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu”
Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,… Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:
“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng”
“Khuôn mặt búp sen” xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.
Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:
“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”
Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có “dăm miếng cau khô”, “mấy lọ phẩm hồng”, “vài thếp giấy đầm”. Vậy mà “lũ quỷ mắt xanh” cũng cướp bóc, đánh đập làm “vết máu loang chiều mùa đông”, làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ “đạp”, “khua”, “trừng trợn”, “xì xồ” diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:
“Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”
Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính.
Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng “thon thót giật mình” vì “tiếng súng dồn tựa sấm”, vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:
“Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn”
“Bộ đội bên sông đã trở về” cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết “những giờ thảm thương” mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:
“Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”
Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:
“Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa”
Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc “mất hồn”, “phát điên”. Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.
Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:
“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.
Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong “hội non sông”. Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.
“Bên kia sông Đuống” đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi ” Bây giờ tan tác về đâu”, “Bây giờ đi đâu về đâu” cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả.
Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.
Thông điệp của bài thơ Bên kia sông Đuống
Bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là hoài niệm về quê hương thanh bình trong quá khứ và nỗi xót xa trước quê hương đau thương trong hiện tại.