Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong đoạn trích Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Đề bài: Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong đoạn trích

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

(Trích Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hội nhà văn Hà Nội, 2002, tr158-162)

Vị trí của đoạn trích Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Sau buổi thề nguyền, đính ước, Kim Trọng về quê hộ tang chí. Gia đình Thúy Kiều gặp nạn, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nửa năm sau, Kim Trọng trở lại vườn Thúy, nơi Kim Trọng từng trọ học và Kim – Kiều tình tự, thề nguyền trước đây.

Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong đoạn trích Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Mở bài

Nêu vấn đề nghị luận: Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong đoạn trích nói về sự việc Kim Trọng trở lại nơi gặp gỡ, tình tự xưa để tìm người yêu.

Thân bài

– Khái quát về bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn học hoặc trong truyện thơ Nôm/Truyện Kiều. Tả cảnh ngụ tình là bút pháp nghệ thuật phổ biến trong văn học trung đại, trong đó, tác giả thông qua miêu tả bức tranh thiên nhiên tạo vật để gửi gắm tâm tư, tình cảm con người (nhân vật trong tác phẩm hay chính tâm trạng của tác giả). Nguyễn Du đã vận dụng rất tài hoa, điêu luyện bút pháp tả cảnh ngụ tình trong “Truyện Kiều”. Ở đó, các bức tranh thiên nhiên đều được khúc xạ qua cái nhìn, cách nhìn của tâm trạng, qua cảnh ngộ và nỗi niềm của nhân vật.

– Các hình ảnh trong văn bản được miêu tả bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình: “Song trăng quạnh quẽ, vách mua rã rời”….. “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”; “Sập sè én liệng lầu không”, “Có lan mặt đất, rêu phong dấu giày”, “Cuổi tường gai góc mọc đầy”, “Chung quanh lặng ngắt như tờ”.

– Tác dụng của bút pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích:

+ Gọi ra bức tranh thiên nhiên hoang tàn, lạnh lẽo, thiểu văng hơi người: Cảnh vật hoang vắng, tàn tại nhà bỏ không lâu ngày, không gian thấp, én liệng sập sè, mặt đất cỏ lan, rêu phong phủ kín dấu giày xưa, lối thông giữa hai vườn xưa là con đường của đôi lứa, giờ là thế giới của gai góc. Hoàn toàn không có sự hiện diện và hơi ấm của con người;

+ Là bức tranh tâm cảnh, thể hiện tâm trạng buồn đau, hoài niệm, rã rời, tiếc nuối, xót xa của chàng Kim khi trở lại nơi cũ. Vẫn là mùa xuân, là cánh én, nhưng không phải là cái náo nức “Ngày xuân con én đưa thoi” của buổi nào. Cánh én như không đủ sức bay trong một không gian thấp, tối, hoang lạnh. Lòng người trồng văng, cô đơn, nhớ tiếc. Sự hoài niệm, sống lại ký ức của tình yêu, hình dung lại bước chân người thương “Đi về nơi những lỗi này năm xưa” càng làm tăng thêm cảm giác đổi lập gay gắt với hiện tại, nhấn mạnh nỗi đau xót, tiếc nuối khôn tả của chàng Kim… Hình ảnh “Hoa đào năm ngoài còn cười gió đông” là hình ảnh thiên nhiên hiện hữu nhưng nặng nề tâm trạng hụt hẫng. nhớ tiếc của Kim Trọng, trong hình ảnh này còn cô đúc cả ý nghĩa của điền cổ “Đào hoa y cựu tiều đông phong” nên diễn tả được cả sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, đối lập giữa mất và còn, đối lập giữa “nụ cười” của hoa và giọt nước mắt trong lòng người.

Kết bài

Bút pháp tả cảnh ngụ tỉnh thể hiện tâm và tài của Nguyễn Du: thấu hiểu và thể hiện tinh tế nổi trống trải, cô đơn, đau xót, thương nhớ người yêu của chàng Kim