Đề bài: Phân tích đoạn trích Ngóng người chân mây dưới đây.
NGÓNG NGƯỜI CHÂN MÂY
(“Chinh phụ ngâm khúc”, Đặng Trần Côn – Bản dịch của Đoàn Thị Điểm)
Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh chiến tranh ác liệt, và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia cuộc chiến.
Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua,hùng dũng trong chiếc chiến hào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về một hình ảnh “Lẫm liệt” của chồng phút chia ly đã dần mờ nhòe, thay thể vào đó là nổi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đấy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng. Chồng quá hạn không về, cũng không có tin tức gì, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng.
Đoạn trích sau đây nằm ở phần gần cuối tác phẩm
Non Kì (1) quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì (2) gió thổi điu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt (3) nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu (4) tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo (5) đầu ngựa giáo dan (6) mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai.
Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay (7)?
Những mong cá nước vui vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn (8)
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu?
Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan san để cách hàn huyên(9) cho đành!
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ỷ nhi (10) lại gáy trước nhà líu lo.
(Chinh phụ ngâm khúc, Đặng Trần Côn , bản dịch của Đoàn Thị Điểm, NXB Văn học, 2007)
* Chú thích:
(1). Non Kì (Kì Sơn): Núi Kỳ Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đấy.
(2). Bến Phì (Phì Thủy): tên sông. Bồ Kiên nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây đắp thành gò.
(3). Mạc mặt: vẽ ra nét mặt.
(4). Ban Siêu: danh tướng đời Hán, theo việc binh nhưng ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi.
(5). Tên reo đầu ngựa: (minh: kêu; đích: mũi tên bịt sắt): tên nỏ bịt sắt, bắn đi vang ra tiếng.
(6). Giáo dan (duyên can): (duyên: leo; can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt thành
(7). Vay: tiếng đệm của câu than thở.
(8). Vương tôn: con nhà giàu sang, ưa đi chơi không đoái hoài đến gia đình.
(9). Quan san, hàn huyên: (quan: ải; san: núi: hàn: lạnh;, huyên: ấm), ý nói cách trở, không biết tin tức của nhau.
(10). Ý nhi: chim én (yến) thường làm tổ trong mái nhà.
Bài làm
* Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác phẩm thơ song thất lục bát (nhan đề, tên tác giả) và nêu ý kiến chung về đoạn trích: Nỗi lòng của người chinh phụ có chồng ra trận
* Thân bài: Làm rõ được nội dung chủ đề, giá trị nghệ thuật của đoạn trích.
– Luận điểm 1: Về nội dung : phân tích những tâm tư, nỗi niềm, khát vọng,…của người chinh phụ.
+ Nàng nghĩ về công danh và nỗi nhọc nhằn của người chồng với sự tương phản: (Áng công danh trăm đường rộn rã/ Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi).
+ Nàng nghĩ về nỗi cô đơn của mình và sự xa cách: Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai/Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây” => nghệ thuật tiểu đối (thiếp trong -chàng ngoài; cánh cửa – chân mây) gợi sự xa cách nghìn trùng… nhớ thương không thể ngỏ, lời không thể trao.
+ Nàng nhớ lại ước mong ngày trẻ bên nhau (vui vầy) nhưng phải đối diện với thực tế quá phũ phàng (nước mây cách vời): sống dằng dặc trong xa cách nhớ thương.
+ Nàng oán thán, vì sao, vì ai mà ta phải sống trong cách trở sầu muộn, khi đôi vợ chồng trẻ chưa kịp quen hơi, bén tiếng (oanh chưa bén liễu).
– Luận điểm 2: Một số nét đặc sắc về nghệ thuật.
+ Thể thơ..
+ Điển tích, phép đối
+ Giọng điệu
– Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong việc làm rõ chủ đề..
* Kết bài:
+ Khẳng định ý nghĩa, giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích thơ.
+ Liên hệ…
>>> Tham khảo: Cách viết từng đoạn trong bài văn phân tích