Tác giả Đồng Kiên Cương (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác)

5/5 - (1 bình chọn)

Cùng Tramvanhoc tìm hiểu về Tác giả Đồng Kiên Cương (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác) để hiểu rõ hơn về ông nhé

Hướng dẫn đọc nhanh

Tiểu sử

– Pháp Loa thiền sư tên thật là Đồng Kiên Cương (sinh ngày 7 tháng Năm năm Giáp thân tức là 2/5/1284-1330).

– Ông còn có tên là Minh Giác, hay Phổ Tuệ Tôn giả.

– Là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thế kỷ 13.

– Quê quán: hương Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương)

– Gia đình: Cha ông là Phật tử, họ Đồng, có pháp danh Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu.

Tác giả Đồng Kiên Cương (Tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác)

– Học vấn: Từ nhỏ đã rất thông minh và ham thích học đạo Phật, khoảng năm Hưng Long thứ mười hai (1304), Trần Nhân Tông, bấy giờ đã là lãnh tụ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, đến du ngoạn ở châu Nam Sách, Kiên Cương tình cờ được yết và xin Nhân Tông cho theo học đạo. Về sau Thiện Lai trở thành một học trò xuất sắc, và đến năm 1308 thì được Nhân Tông đổi tên là Pháp Loa và trao y bát, trở thành vị tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm.

Sự nghiệp

Pháp Loa là người vừa uyên thâm về giáo lý đạo Thiền, vừa có tài tổ chức các hoạt động của Phật giáo trong nước thời bấy giờ. Ông đã có công khai sáng nhiều danh thắng lớn như viện Quỳnh Lâm, chùa Thanh Mai,… đồng thời trông coi việc tu sửa nhiều chùa, viện khác. Ông cũng thường được mời giảng các kinh Hoa nghiêm, Viên giác, Tuyết đậu ngữ lục, Đại tuệ ngữ lục, Thượng sĩ ngữ lục (của Trần Tung) và Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục (của Trần Nhân Tông). Các vua nhà Trần rất tôn trọng ông. Hoạt động Phật giáo của ông lôi cuốn được sự hưởng ứng của rất đông vương hầu, công chúa. Vua Trần Anh Tông đã tặng ông tên hiệu Phổ Tuệ Tôn giả và trong thư từ trao đổi với ông, nhà vua thường tự xưng là đệ tử. Pháp Loa còn nhận trọng trách san dịch, biên tập và in ấn nhiều kinh sách, kể cả tác phẩm của các vị thầy như Thượng sĩ ngữ lục hay Thạch thất mỵ ngữ (của Trần Nhân Tông)… Nhờ đó, ông đã có điều kiện viết chú sớ cho nhiều bộ kinh, như Kim cương trường đà-la-ni khoa chú, Niết bàn đại kinh khoa sở… cũng như soạn một số bộ sách hướng dẫn việc tu hành, như Pháp sự khoa văn, Độ môn trợ thành tập…

Tác phẩm

– Đại Tạng Kinh (gồm 5.000 quyển)

– sách Tam Tổ Thực Lục ghi là vào năm 1311

>>> Tham khảo: Giới thiệu tác giả Huỳnh Thanh Hồng (tiểu sử, sự nghiệp, phong cách sáng tác)

This will close in 0 seconds