Đề bài: Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Lên núi Ba Vì của Phạm Tiến Duật.
Lên núi Ba Vì
Phạm Tiến Duật
1-Ô hay, núi cứ ba hòn nhỉ
Cứ kết liền nhau đến lạ kì
Đã có Tam Thanh (2) còn Tam Điệp (3)
Đã xanh Tam Đảo(4) lại Ba Vì.
2-Ý thiên nhiên hẳn giống ý người
Núi tựa đinh ba(5) chọc giữa trời
Mấy phen thắng giặc ta lên thử
Đất cứ bình yên, sông cứ xuôi.
3-Cái thế chân kiềng núi cứ ba
Trụ trời trụ đất đứng nguy nga
Dưới chân núi đó nhà em ở
Khói vẫn bình yên thung lũng xa.
Từ nội dung bài thơ, hãy làm sáng tỏ một quy luật được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm trong hai câu thơ sau:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Bài làm
I. Mở bài
Bài thơ “Lên núi Ba Vì” của Phạm Tiến Duật là một tác phẩm đầy ý nghĩa, đưa người đọc đến với hình ảnh núi Ba Vì – một biểu tượng thiêng liêng và gắn bó với lịch sử, văn hóa của dân tộc. Qua từng câu thơ, tác giả đã khéo léo khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, kỳ lạ của dãy núi Ba Vì, đồng thời gửi gắm những suy nghĩ sâu sắc về quy luật và ý nghĩa của thiên nhiên trong cuộc sống con người.
Bài thơ như một minh chứng cho quy luật được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm trong hai câu thơ sau:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha
II. Thân bài
Khổ thơ 1: Hình ảnh kỳ diệu của núi Ba Vì
Ô hay, núi cứ ba hòn nhỉ
Cứ kết liền nhau đến lạ kì
Đã có Tam Thanh còn Tam Điệp
Đã xanh Tam Đảo lại Ba Vì.
Khổ thơ đầu tiên mở ra với sự ngạc nhiên và thú vị của tác giả trước hình ảnh ba hòn núi của Ba Vì. Cách diễn đạt “cứ kết liền nhau đến lạ kỳ” nhấn mạnh sự đặc biệt và thú vị của dãy núi này. Tác giả cũng đặt Ba Vì trong tương quan so sánh với các dãy núi khác như Tam Thanh, Tam Điệp và Tam Đảo, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và phong phú. Qua đó, Phạm Tiến Duật không chỉ miêu tả vẻ đẹp của Ba Vì mà còn gợi lên sự kết nối, hài hòa giữa các dãy núi trong tự nhiên.
Khổ thơ 2: Ý nghĩa sâu xa của thiên nhiên
Ý thiên nhiên hẳn giống ý người
Núi tựa đinh ba chọc giữa trời
Mấy phen thắng giặc ta lên thử
Đất cứ bình yên, sông cứ xuôi.
Khổ thơ thứ hai gợi lên sự kết nối, tương thông giữa tình ý của thiên nhiên và ý chí con người. Hình ảnh “núi tựa đinh ba chọc giữa trời” tạo nên một biểu tượng mạnh mẽ, biểu thị sự kiên cường, bất khuất. Tác giả cũng nhắc đến những trận chiến thắng giặc của dân tộc, qua đó khẳng định rằng dù có trải qua bao thử thách, đất nước vẫn giữ được sự bình yên, con người vẫn bảo vệ được nền hòa bình dân tộc. Đây là một lời khẳng định về sức mạnh, lòng kiên cường và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Khổ thơ 3: Sự cao cả mà bình dị của quê hương
Cái thế chân kiềng núi cứ ba
Trụ trời trụ đất đứng nguy nga
Dưới chân núi đó nhà em ở
Khói vẫn bình yên thung lũng xa.
Khổ thơ cuối cùng nhấn mạnh sự vững chãi, uy nghi của dãy núi Ba Vì với “cái thế chân kiềng núi cứ ba”. Hình ảnh gợi liên tưởng đến câu ca dao quen thuộc:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Câu thơ Cái thế chân kiềng núi cứ ba tạo nên một cảm giác vững chắc, bền bỉ, tượng trưng cho sự gắn bó và tình yêu quê hương. Trong bài thơ, “trụ trời, trụ đất” được dùng để mô tả những ngọn núi Ba Vì, biểu thị sự uy nghi, vững chãi và bất khuất của dãy núi này: Trụ trời trụ đất đứng nguy nga”. Hình ảnh này không chỉ nhấn mạnh vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên mà còn gợi sự kiên cường, bền bỉ của người dân Việt Nam trong việc giữ gìn và bảo vệ quê hương đất nước. Nó còn ngụ ý rằng Ba Vì không chỉ là một dãy núi mà còn là một biểu tượng của sức mạnh, sự bền vững và lòng kiên định của dân tộc.
Tác giả còn tái hiện một hình ảnh yên bình, giản dị với “khói vẫn bình yên thung lũng xa”, thể hiện cuộc sống thanh bình, hạnh phúc của người dân dưới chân núi. Điều này càng làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa thiên nhiên và con người, giữa núi rừng hùng vĩ và cuộc sống thường nhật.
Quy luật được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Qua nội dung bài thơ “Lên núi Ba Vì”, ta có thể thấy rõ một quy luật mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm trong những câu thơ trên. Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh rằng cách nhìn mọi cảnh trí của đất nước đều mang dấu ấn của lịch sử và văn hóa, phản ánh cuộc sống và truyền thống của ông cha. Đất nước sau bốn nghìn năm đã chứng kiến biết bao cuộc đời, sự hy sinh và cống hiến, và tất cả đã hóa thành núi sông, thành bản sắc của dân tộc. Cảnh trí non sông là do tạo hóa sắp đặt nhưng mỗi ngọn núi con sông không chỉ là một phần của cuộc sống con người mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc. Mỗi dáng hình, mỗi ao ước, mỗi lối sống của con người đều in dấu lên cách nhìn mỗi dòng sông, ngọn núi. Ngược lại, mỗi ngọn núi dòng sông đều được con người tô điểm bằng tình cảm, tâm hồn dân tộc. Thiên nhiên quê hương vì thế mang dấu ấn của ông cha, gắn liền với những truyền thống và ký ức quý báu.
Cả hai nhà thơ đều nhấn mạnh sự gắn kết sâu sắc giữa thiên nhiên và con người, giữa quá khứ và hiện tại. Phạm Tiến Duật, qua hình ảnh núi Ba Vì, khẳng định sự trường tồn và kiên cường của dân tộc Việt Nam. Những ngọn núi không chỉ là cảnh quan thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự mạnh mẽ, ý chí kiên cường và lòng yêu nước. Ba Vì, cùng với những dãy núi khác, không chỉ chứng kiến mà còn là biểu tượng của những cuộc chiến đấu oanh liệt và sự phát triển của đất nước. Nguyễn Khoa Điềm, qua bốn câu thơ, nhấn mạnh rằng ở đâu trên đất nước Việt Nam cũng mang dấu ấn của lịch sử và văn hóa, của cuộc sống và truyền thống ông cha. Những cuộc đời đã hóa thành núi sông, tạo nên bản sắc và linh hồn của đất nước.
III. Kết bài
Bài thơ “Lên núi Ba Vì” của Phạm Tiến Duật không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đẹp mà còn chứa đựng những thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương, sự gắn bó với thiên nhiên và ý chí kiên cường của dân tộc. Qua hình ảnh dãy núi Ba Vì, tác giả đã truyền tải một quy luật tự nhiên và xã hội rằng mỗi cảnh quan, mỗi dáng hình đều mang trong mình dấu ấn của lịch sử, văn hóa và tinh thần dân tộc. Đây là một lời nhắc nhở quý báu về vai trò của thiên nhiên trong cuộc sống con người, cũng như tầm quan trọng của việc bảo vệ và gìn giữ những giá trị truyền thống của quê hương.